Thứ Hai, 14 tháng 9, 2009

TIM HIEU DAO DUC GIA CUA HO CHI MINH

đạo đức Hồ Chí Minh là gian trá, tráo trở, lường gạt, tàn bạo, độc ác, nham hiểm, giết người dã man, cướp của, hối lộ, bóc lột …
“Tháng 3 năm 2003, Trung ương ảng đã phát động một đợt ‘học tập ư ưởng Hồ Chí Minh gian trá’. Ba năm sau, Bộ Chính trị quyết định mở rộng đợt học tập này. Theo một chỉ thị do Tổng Bí thư Đảng CSVN ký thì sau khi học tập ‘ư ưởng Hồ C Minh’, toàn Đảng, toàn dân còn cần học tập và làm theo ‘ấm ương đạo đức Hồ Chí Minh gian trá’ từ năm 2007 cho tới hết nhiệm kỳ Đại hội X của Đảng CSVN, mãi tới đầu năm 2011 mới kết thúc” (*1). Một trong những kết quả đợt học tập ấy là: “Tại tỉnh Vĩnh Long, qua gần ba năm thực hiện ‘Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương ạo ức Hồ Chí Minh gian trá’, cán bộ, đảng viên của tỉnh đã có những chuyển biến tích cực trong đạo đức, lối sống. Đến nay, cuộc vận động đã lan sâu vào lĩnh vực tôn giáo. Nhiều gương tiêu biểu ở các chùa cho thấy rằng, những vị sư sãi đã bắt đầu học tập, làm theo gương ác từ những việc làm hết sức thiết thực và cụ thể” (*1).

Hiện nay, uy tín của đảng CSVN trước quốc dân Việt Nam đang bị xuống dốc trầm trọng, người dân ngày càng thấy rõ thực chất của đảng CSVN là một đảng cướp đúng nghĩa nhất, độc ác và nham hiểm nhất, nhưng lại quy mô nhất… Và người dân ngày càng cảm thấy không thể để cho cái đảng cướp này cứ nắm quyền cai trị để bóc lột đồng bào đến tận xương tuỷ mãi. Trong lòng người dân đang cháy lên ngọn lửa bất mãn và ngày càng cháy bùng lên. Trước nguy cơ toàn dân nổi dậy hầu quét sạch bọn cướp ngày gian ác này, đảng CSVN hết sức lo sợ nên đã tìm cách đối phó. Một trong những cách đối phó của họ là đưa ra và đề cao “ư ưởng Hồ Chí Minh” gian trá, trong đó có “ạo ức Hồ Chí Minh” gian trá, hầu hâm nóng lại sự trung thành đối với đảng vốn đang nguội lạnh dần nơi các cán bộ cộng sản.

Trước cách đối phó ấy, thiết tưởng người dân Việt trong và ngoài nước cần phải hiểu thật rõ “đạo đức Hồ Chí Minh” là gì? Bản chất của thứ gọi là “đạo đức” đó là gì?

Đạo đức của một dân tộc, một xã hội hay một nền văn hóa luôn luôn phải đặt trên một nền tảng hay một tiêu chuẩn nào đó để dựa vào đó, người ta có thể xác định một quan niệm, tư tưởng, lời nói hay hành động nào đó là có đạo đức hay không. Đối với Lão Tử, tác giả cuốn “Đạo Đức Kinh”, và những người theo ông thì “Đức” là cái gì phù hợp với “Đạo”, là sự thể hiện của “Đạo” trong tư tưởng, lời nói và việc làm của con người. Người có “Đức” là người quan niệm, suy nghĩ, nói năng, hành động và sống phù hợp với “Đạo” của Trời Đất, của Con Người. Từ ngữ “đạo đức” và ý nghĩa của nó có lẽ xuất phát từ quan niệm này của Lão Tử. Đối với Đức Phật hay Phật giáo, đạo đức là phẩm chất của những tư tưởng, hành động phù hợp với sự giác ngộ về “Bản Lai Diện Mục”, “Chân Tâm” hay “Chân Như Phật Tính”. Nói cụ thể hơn ‒ đương nhiên cũng sẽ hạn hẹp hơn ‒ cho những người thích cụ thể, thì đạo đức là những gì phù hợp với giáo huấn của Đức Phật. Đối với Thiên Chúa giáo thì Thiên Chúa là trên hết. Tất cả những gì phù hợp với vị trí tối thượng của Thiên Chúa, với thánh ý và giáo huấn của Ngài ‒ được cụ thể hoá bằng tình yêu đối với Thiên Chúa và đồng loại ‒ thì gọi là đạo đức.

Vậy, đối với người Cộng sản, đạo đức là gì? Thưa: Đạo đức là những gì phù hợp với việc đặt quyền lợi của đảng cộng sản lên trên hết. Do đó tất cả những gì có lợi cho sự nắm quyền cai trị vô thời hạn và sự trường tồn của đảng Cộng sản thì đó là đạo đức, là thiện, là tốt. Ngược lại, những gì bất lợi cho sự độc quyền cai trị và quyền lợi của đảng cộng sản thì đều là vô đạo đức, là ác, là xấu. Có hiểu như thế chúng ta mới có thể cắt nghĩa được tại sao ông Hồ Chí Minh được coi là gương mẫu “ạo ức” của người Cộng sản, HCM đã từng:

‒ ra lệnh giết oan hàng trăm ngàn người vô tội trong phong trào “Cải Cách Ruộng Đất”;

‒ lấy hàng chục người vợ cách bí mật mà vẫn cứ công khai tuyên bố mình độc thân để mọi người lầm tưởng rằng ông hy sinh hạnh phúc gia đình hầu toàn tâm toàn ý lo cho hạnh phúc của toàn dân; đã thế, ông còn để thuộc hạ giết chết vợ mình là Nông Thị Xuân khi bà này đòi công khai cuộc hôn nhân giữa hai người;

‒ mạo danh tác giả Trần Dân Tiên để viết cả một cuốn sách tự ca tụng mình cách hợm hĩnh;

‒ ra lệnh cho Phạm Văn Đồng ký công hàm năm 1958 công nhận hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của VNCH thuộc chủ quyền của Tàu cộng;

‒ nướng hàng triệu thanh niên nam nữ miền Bắc trong chiến trường miền Nam để gieo đau thương tang tóc cho đồng bào miền Nam suốt từ 1959 đến 1975 và suốt từ 1975 đến nay;

‒ ra lệnh đánh phá miền Nam vào ngay ngày đình chiến tết Mậu Thân 1968, trong đó bộ đội của ông giết và chôn sống hàng ngàn người dân vô tội ở Huế cách hết sức dã man, và ông vui mừng coi đó là một chiến thắng vẻ vang;

‒ lập ra một đảng cướp gọi là “đảng Cộng sản Việt Nam ” để cướp chính quyền, để sau đó cướp hết quyền tự do, quyền con người của người dân, quyền tự quyết của dân tộc, hầu tha hồ giết người cướp của cho đầy ắp túi tham của mình…

Theo quan niệm bình thường của đại đa số người dân trên thế giới, những hành vi ấy của Hồ Chí Minh đều là những tội ác tày trời. Thế nhưng đảng CSVN lại coi ông là người “đạo đức” nhất, đáng làm gương cho tất cả mọi đảng viên cộng sản noi theo. Và đảng CSVN gọi thứ “đạo đức” ấy là “đạo đức Hồ Chí Minh”. Tại sao vậy? Vì như đã trình bày ở trên, đối với đảng cộng sản, bất kỳ hành vi nào có lợi cho sự nắm quyền cai trị vô thời hạn của đảng trên dân tộc mình, đều là “đạo đức” hết. Mà tất cả những tội ác tày trời vừa kể của Hồ Chí Minh đều có đặc tính là đặt quyền lợi của đảng cộng sản lên trên hết, đều nhắm đến việc bảo vệ sự trường tồn thống trị của đảng cộng sản trên dân tộc Việt Nam. Nên đó chính là những hành vi “đạo đức” theo quan niệm của người cộng sản.

Theo quan niệm của đảng Cộng sản, giết oan người vô tội cách dã man mà có lợi cho đảng thì đó là đạo đức. Nói dối, lường gạt mọi người dù trắng trợn hay trơ trẽn nhất để có lợi cho đảng thì đó là đạo đức, là nói đúng sự thật. Bán hết cả đất nước cho kẻ thù, làm cho toàn dân tộc phải điêu linh đau khổ, nhưng nếu điều ấy có lợi cho sự cầm quyền của đảng, thì đó là đạo đức. Giết người, cướp của, hối lộ… nhưng trung thành với đảng, sẵn sàng làm những gì có lợi cho sự tồn tại của đảng thì đều là công đức, đáng khen thưởng.

Do đó, cần phải hiểu cho chính xác một số thuật ngữ ‒ liên quan đến các giá trị ‒ mà cộng sản thường dùng trên các phương tiện truyền thông của họ. Người cộng sản hiểu nội dung những thuật ngữ này hoàn toàn khác với cách mọi người trên thế giới thường hiểu:

‒ “Tổ quốc”, “quốc gia”, “quê hương”, “nhân dân”, “dân tộc” luôn luôn được đồng hoá với đảng cộng sản. “Trung thành với tổ quốc” hoàn toàn đồng nghĩa với trung thành với đảng. Ai đứng về phe nhân dân, bênh vực quyền lợi của người dân, bảo vệ lãnh thổ quốc gia, nhưng nếu hành động ấy có hại cho quyền lợi của đảng thì người đó vẫn bị kết án là “phản bội tổ quốc”, là “chống lại nhân dân”… Những tội như “xâm phạm an ninh quốc gia” hoàn toàn không có gì liên quan đến “quốc gia” hay “dân tộc” theo nghĩa ta thường hiểu, mà chỉ có nghĩa là “xâm phạm đến sự an toàn của đảng cộng sản” hoặc “đe doạ độc quyền cai trị của đảng cộng sản”. Đối với người cộng sản, từ ngữ “quốc gia”, “dân tộc” ‒ theo nghĩa chung mà mọi người thường hiểu ‒ đều không là gì cả, không có giá trị bao nhiêu. Nó chỉ được coi là một thực thể đáng quan tâm khi nó được đồng hoá với “đảng cộng sản”. Do đó, xâm phạm tới lợi ích của đảng cộng sản thì luôn luôn bị họ kết án là “xâm phạm lợi ích quốc gia”. Có hiểu như vậy, ta mới thấy rằng đảng cộng sản cho việc Tàu cộng vào khai thác bauxit hay việc nhường biển và lãnh thổ cho Tàu cộng là không hề nguy hiểm gì cho “an ninh quốc gia” cả; trái lại đó là cách “bảo vệ an ninh quốc gia” vì nó bảo vệ cho sự cai trị vĩnh cửu của đảng cộng sản. Những người như cô Phạm Thanh Nghiên, blogger Người Buôn Gió, hay những sinh viên biểu tình chống Tàu cộng chiếm Hoàng Sa Trường Sa, phản đối việc Tàu cộng khai thác bauxit ở Tây Nguyên đều bị đảng coi là “xâm phạm an ninh quốc gia”. Sao vậy? Vì điều đó cản trở việc Tàu cộng bảo trợ cho độc quyền cai trị của đảng CSVN. Khi Tàu cộng đang bảo trợ cho sự cai trị của đảng, thì ai chống Tàu là chống đảng, mà chống đảng chính là “chống lại quốc gia dân tộc”.

‒ “Sự thật” lớn nhất theo quan điểm của người cộng sản phải được phát biểu đại khái thế này: “Đảng cộng sản là đảng tốt nhất trần gian, xứng đáng được mọi người phục vụ hơn bất kỳ một tập thể nào cho dù tập thể đó là quê hương dân tộc; và đảng cộng sản xứng đáng cai trị đất nước hơn bất kỳ đảng phái nào”. Tất cả những phát biểu nào ngược lại với “sự thật” ấy thì đều là “giả dối”, là “sai lạc”. Từ đó suy ra: tất cả những gì có lợi cho quyền lực của đảng, cho sự cai trị vô hạn của đảng, dù những điều ấy hoàn toàn trái ngược với thực tế, đều được coi là “sự thật”. Còn tất cả những gì có khuynh hướng coi đảng cộng sản là xấu, kém, tồi, hoặc những gì bất lợi cho sự cầm quyền của đảng, cho dù có đúng với thực tế 100% cũng đều bị coi là “xuyên tạc”, là “bóp méo sự thật” hết! Dân gian thường bảo: “nói dối như vẹm”, nhưng người cộng sản không hề cho rằng họ nói dối, dù những điều họ đang nói hoàn toàn trái ngược với thực tế. Họ cho những điều họ nói là hoàn toàn có lợi cho đảng của họ, nên đó chính là “sự thật”. Hiện nay, cả thế giới đều biết Việt Nam là một nước tụt hậu nhất, kém dân chủ nhất, vi phạm nhân quyền nhiều nhất, và đảng cộng sản là kẻ đàn áp và khủng bố người dân nhiều nhất. Nhưng bất kỳ ai nói lên điều ấy thì đều bị kết án là “xuyên tạc”, “vu khống”, “nói sai sự thật”, và kẻ ấy… đương nhiên vào tù! Có quan niệm như thế chúng ta mới dễ hiểu câu tuyên bố công khai của ông Nguyễn Tấn Dũng trước thế giới: “Tôi yêu nhất, quý nhất là sự trung thực và tôi cũng ghét nhất, giận nhất là sự giả dối”, mặc dù ai cũng biết rằng ông nói dối như cuội. Từ ngữ “sự trung thực” trong câu của ông không có nghĩa nào khác ngoài “những gì có lợi cho sự cai trị của đảng CSVN”, còn “sự giả dối” chỉ có nghĩa là “những gì ngược với quyền lợi đảng CSVN”.

‒ “Tự do” là tình trạng hay khả năng làm tất cả những gì phù hợp với quyền lợi hay sự cai trị của đảng. Người có khuynh hướng làm ngược với quyền lợi của đảng là người “không có tự do”, là hạng “nô lệ” cần được “giải phóng”. Theo nghĩa đó, trước 1975, miền Bắc Việt Nam được coi là “vùng tự do”, còn miền Nam là “vùng nô lệ”, nên miền Bắc phải “giải phóng” miền Nam để miền Nam được “tự do”. Các cán bộ cộng sản hiện nay thường nói một cách rất vô tư, thành thật, không hề ngượng miệng: “Nước Việt Nam ta tự do gấp triệu lần những nước khác”. Tại sao? Vì quả thật hiện nay, họ được tha hồ làm bất cứ điều gì ‒ ăn cướp, hối lộ, tham nhũng, giết người, đánh đập, hiếp dâm… ‒ miễn sao điều đó có lợi hay ít nhất là vô hại cho sự cai trị của đảng CSVN, và miễn sao họ tỏ ra trung thành với đảng là được. Ở những nước khác mà làm như vậy thì vô tù ngay tức khắc! Vì thế, chúng ta thấy các cán bộ cộng sản cứ cướp đất cướp nhà của dân, hết nhà này tới nhà khác, mà vẫn sống phây phây, chẳng toà án nào kết án họ cả! Sao vậy? Vì họ luôn luôn tỏ ra trung thành với đảng, sẵn sàng bảo vệ đảng, nên đối với đảng họ là những người “đạo đức”. Còn những người dân bị cướp nếu cứ kêu oan, cứ kiện tụng hoài làm mất mặt đảng thì đều bị kết án là vi phạm pháp luật, là “vô đạo đức”.

‒ “Hoà bình” là tình trạng của một xã hội đã được cộng sản nắm quyền cai trị, bất chấp người dân trong đó thường xuyên bị khủng bố, luôn luôn sống trong sợ hãi vì có thể bị giết, bị tù, bị cướp bất cứ lúc nào. Theo quan niệm của cộng sản, miền Nam Việt Nam chỉ bắt đầu có “hoà bình” kể từ năm 1975 về sau.

‒ “Đoàn kết” là cùng hợp nhau củng cố quyền lực cho đảng cộng sản, dưới sự lãnh đạo của đảng. Do đó “phá hoại đoàn kết” hay “phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc” là có những hành động làm cho người dân nhận ra sự thật về bản chất gian dối và độc ác của đảng, khiến họ không còn tin tưởng hay chấp nhận sự lãnh đạo của đảng, dẫn đến việc không cộng tác với đảng, xa rời đảng hay chống lại đảng.

‒ “Thế lực thù địch” là bất kỳ thế lực nào không chấp nhận hoặc gây bất lợi cho sự cai trị vô thời hạn của đảng cộng sản trên đất nước mình. Dù thế lực ấy có yêu nước và có làm lợi cho quê hương đất nước tới đâu, nhưng hễ gây bất lợi cho sự cai trị của đảng cộng sản thì đều bị coi là “thế lực thù địch” cần phải tiêu diệt. Những thế lực đấu tranh đòi tự do, dân chủ, nhân quyền, công bằng xã hội cho người dân ‒ điều này đương nhiên bất lợi cho sự cai trị của đảng ‒ dù ở trong hay ngoài nước, đều là những “thế lực thù địch”.

Đó chỉ là một vài từ ngữ điển hình. Vì giới hạn của bài, tác giả không thể kể hết ra đây tất cả những từ ngữ được cộng sản dùng với những ý nghĩa hết sức khác với nghĩa chung mà mọi người trên thế giới thường hiểu.

“Đạo đức Hồ Chí Minh” mà đảng CSVN hiện nay đang hô hào toàn đảng toàn dân học tập và thực hành, trong thực tế chính là những gì mà mọi người có lương tri trên thế giới đều hiểu là dã man, tàn bạo, độc ác, gian trá, tráo trở, lường gạt… Giữa “đạo đức Hồ Chí Minh” và đạo đức của các tôn giáo hay của lương tri con người hầu như luôn luôn có một sự trái ngược: Điều được coi là thiện, là tốt, là chân thực trong thứ đạo đức này thì lại là ác, là xấu, là giả dối trong thứ đạo đức kia, và ngược lại. Vì thế, mặc dù được đảng CSVN đề cao và hô hào học tập từ nhiều thập niên trước, nhưng thứ “đạo đức” ngược hẳn lại lương tri này đã bị dân chúng tẩy chay và đi vào quên lãng. Nay trước nguy cơ bị dân chúng nổi dậy lật đổ, đảng CSVN lại đề cao thứ “đạo đức” ngược đời này và ô hào các cán bộ, đảng viên của mình học tập và thực hành. Mục đích của họ là động viên và thúc đẩy các cán bộ, đảng viên sẵn sàng làm tất cả những gì độc ác, tàn bạo nhất với những người dân nào không chịu nổi sự đàn áp của đảng CSVN nên muốn nổi dậy lật đổ chế độ phi nhân, hầu bảo vệ và duy trì sự cai trị của đảng CSVN trên toàn dân tộc. Tất cả những hành vi tàn bạo độc ác nhất nhằm bảo vệ chế độ đều được CSVN coi là “đạo đức”, thứ đạo đức được mệnh danh là “đạo đức Hồ Chí Minh”.

Nguyễn Chính Kết
Houston, 9-9-2009

BAN CAO TRANG TOI AC CONG SAN VIET NAM

Nghị Viện Âu Châu Lên Án Các Chế Độ Cộng Sản
Bản Cáo Trạng Tám Mươi Năm Tội Ác Của Cộng Sản Việt Nam
Năm 1996, Nghị Viện Âu Châu đã thông qua Nghị Quyết số 1906 để đưa ra những biện pháp nhằm tháo gỡ những di sản của những hệ thống cộng sản chuyên chế trước đây. Về phương diện định chế, những di sản này gồm: tập trung quyền hành tối đa, quân sự hoá các tổ chức dân sự, chế độ quan liêu, sự độc quyền và quy luật hoá tối đa mọi sinh hoạt xã hội. Về phương diện xã hội, những di sản này gồm: chủ nghĩa tập thể, chủ nghĩa tuân thủ mù quáng và những khuôn mẫu suy tư độc đoán.
Riêng tại Việt Nam, ngoài các di sản kể trên, cộng sản còn để lại nhiều di sản độc hại khác. Đó là sự phá hoại nền đạo lý và nếp sống theo văn hoá nhân văn, nhân bản truyền thống của dân tộc, và thay thế vào đó bằng một thứ văn hoá xã hội chủ nghĩa rừng rú và phi nhân tính. Những vụ con cái đấu tố cha mẹ, vợ chồng, anh chị em đấu tố nhau… một cách man rợ trong thời kỳ “Cải Cách Ruộng Đất” từ 1953 đến 1956 là những hành vi vô luân vượt ra ngoài sự tưởng tượng của những kẻ vô đạo nhất. Đây là tội phá hoại văn hiến, tội chống lại quốc gia của Hồ Chí Minh. Không có cái công nào có thể chuộc được cái tội này. Những di sản độc hại này đã di căn vào toàn bộ cơ thể xã hội hôm nay, và còn tiếp tục gây tác hại cho tới khi nào cộng sản còn thống trị đất nước.
Tham chiếu Nghị Quyết trên đây, năm 2006, Nghị Viện Âu Châu đã thông qua thêm Nghị Quyết số 1481 nhằm tố cáo và lên án những vi phạm nghiêm trọng về nhân quyền của những chế độ cộng sản đã cai trị ở Trung và Đông Âu trong thế kỷ 20 và các chế độ cộng sản còn đang tiếp tục thống trị tại bốn quốc gia trên thế giới trong thế kỷ 21 gồm Trung Cộng, Việt Cộng, Hàn Cộng và Cuba. Tất cả những chế độ cộng sản này – không có ngoại trừ – đã có một đặc tính chung là những vi phạm nghiêm trọng về nhân quyền.
Những vi phạm nhân quyền của các chế độ cộng sản bao gồm những vụ ám sát và xử tử các cá nhân và tập thể, giết người trong các trại tập trung, bỏ đói, bắt lưu đầy, tra tấn, hành hạ, bắt làm lao nô, khủng bố thể chất và tinh thần, bách hại tôn giáo và chủng tộc; vi phạm tự do lương tâm, tự do tư tưởng, tự do phát biểu, tự do báo chí và thiếu vắng đa nguyên chính trị.
Nghị Viện Âu Châu nhận định rằng – sau sự sụp đổ của các chế độ cộng sản tại Trung và Đông Âu – đã không có một cuộc điều tra sâu rộng của cộng đồng quốc tế về những tội ác của các chế độ này. Và hơn nữa, những thủ phạm đã gây ra những tội ác cũng không bị mang ra xét xử tại một toà án hình sự quốc tế như trường hợp các thủ phạm đã gây những tội ác khủng khiếp trong chế độ Đức Quốc Xã. Do đó, sự hiểu biết về những tội ác của cộng sản trong công chúng rất hạn chế và những chế độ cộng sản còn sót lại vẫn tiếp tục phạm những tội ác chống nhân quyền.
Nghị Viện Âu Châu tin rằng sự hiểu biết thấu đáo về lịch sử là một trong những điều kiện tiên quyết để tránh những tội ác tương tự trong tương lai. Hơn nữa, việc thẩm định mang tính đạo đức và sự lên án những tội ác mà cộng sản đã phạm giữ một vai trò quan trọng trong việc giáo dục các thế hệ trẻ sau này. Quan điểm minh bạch về quá khứ sẽ soi sáng cho những hành động của cộng đồng thế giới trong tương lai.
Những chế độ cộng sản còn thống trị tại vài quốc gia trên thế giới vẫn tiếp tục vi phạm những tội ác chống nhân quyền. Những quốc gia trên thế giới không nên vì quyền lợi của quốc gia mình mà tránh né lên án những tội ác chống nhân quyền của các chế độ cộng sản toàn trị còn hiện hữu trên thế giới. Nghị Viên Âu Châu lên án mạnh mẽ những vi phạm nhân quyền của các chế độ cộng sản còn sót lại này.
Nghị Viện Âu Châu xác tín rằng quan điểm minh bạch của cộng đồng thế giới khi thảo luận và lên án những tội ác mà các chế độ cộng sản đã vi phạm là một bổn phận của đạo đức và không được trì hoãn lâu hơn nữa.
Nghị Viện Âu Châu cũng tin rằng những quan điểm minh bạch của cộng đồng thế giới đối với những tội ác mà các chế độ cộng sản đã vi phạm sẽ mở ra con đường hoà giải sau này. Và hy vọng rằng quan điểm minh bạch trên đây sẽ khuyến khích các sử gia trên toàn thế giới hãy tiếp tục tra cứu để thẩm định một cách chính xác và khách quan những tội ác mà cộng sản đã phạm.
Tám Mươi Năm Tội Ác Của Cộng Sản Việt Nam
Theo tinh thần của hai nghị quyết trên đây, việc thảo luận và lên án những tội ác mà cộng sản Viêt Nam đã phạm đối với dân tộc Việt Nam trong 80 năm nay là bổn phận của lương tri và đạo đức của mọi người Việt Nam. Việc tra cứu và thẩm định một cách chính xác và khách quan những tội ác của cộng sản Việt Nam và đưa những chánh phạm ra xét xử trước ánh sáng của công lý là một thể hiện công bằng và minh bạch để đưa đến hoà giải và thống nhất ý chí và tư tưởng của dân tộc đã bị phân hoá và chia rẽ bởi những di sản độc hại mà chế độ cộng sản đã để lại cho xã hội Việt Nam trong gần một thế kỷ kể từ năm 1930 đến nay.
Hệ thống luật pháp quốc gia không dự liệu những tội ác của cộng sản đối với dân tộc Việt Nam bởi vì đây là những tội ác nghiêm trọng có tính quốc tế. Những tội ác của cộng sản Việt Nam thuộc bốn nhóm tội ác đã được dự liệu tại Đạo Luật Rome (The Rome Statute) gồm: 1) Tội Ác Xâm Lược (The crime of Aggression); 2) Tội Ác Chiến Tranh (War Crimes); 3) Tội Ác Diệt Chủng (The crime of Genocide); 4) Tội Ác chống Nhân Loại (Crimes against Humanity). Sau đây xin lược kê và phân loại – theo bốn nhóm tội ác nói trên – một số tội ác của Việt cộng trong 80 năm nay.

I – Tội Ác Xâm Lăng VNCH
Theo công pháp quốc tế, Việt Nam Cộng Hoà hội đủ tám tiêu chuẩn để là một quốc gia độc lập:
1- VNCH có một lãnh thổ có biên cương được quốc tế công nhận.
2- VNCH là ngôi nhà chung của 22 triệu người Việt sinh sống trong đó.
3- VNCH có hoạt động kinh tế và có một nền kinh tế thị trường có tổ chức. VNCH có hoạt
động nội thương và ngoại thương và phát hành tiền tệ.
4- VNCH có một bộ giáo dục và một hệ thống giáo dục miễn phí từ bậc tiểu học đến đại học; ngoài ra còn có một hệ thống các trường cao đẳng chuyên nghiệp.
5- VNCH có một hệ thống chuyên chở quốc nội và quốc ngoại gồm đường bộ, xa lộ, thiết
lộ, đường thuỷ, đường hàng không, các bến xe, bến cảng và các phi trường để chuyên chở hành khách và hàng hoá trong nội địa và ra ngoại quốc.
6- VNCH có một chính phủ dân cử gồm ba nghành: hành pháp, lập pháp và tư pháp độc lập và kiểm soát lẫn nhau; có một Quân Lực gồm một triệu quân nhân dưới cờ với Hải Lục Không quân để bảo vệ tổ quốc và một lực lượng cảnh sát gồm hơn 200.000 nhân viên để giữ gìn trật tự và bảo vệ an ninh cho dân chúng.
7- VNCH là một quốc gia độc lập và có chủ quyền tuyệt đối trên lãnh thổ của quốc gia.
8- VNCH đã thiết lập liên lạc ngoại giao với hơn một trăm quốc gia trên thế giới, có toà đại sứ tại tất cả các quốc gia này kể cả tại bốn quốc gia thành viên thường trực của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc là Anh, Pháp, Mỹ và Trung Hoa Quốc Gia. VNCH là thành viên của nhiều tổ chức thuộc Liên Hiệp Quốc và cũng đã tham dự nhiều cuộc họp quốc tế.
Chiếu theo tám tiêu chuẩn được công pháp quốc tế công nhận trên đây, Việt Nam Cộng Hoà đương nhiên là một một quốc gia độc lập, có chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Do đó, khi cộng sản Miền Bắc xâm lăng Việt Nam Cộng Hoà bằng vũ lực vào tháng 4/1975, chúng đã phạm Tội Ác Xâm Lăng. Đây là một tội ác có tính quốc tế bởi vì cuộc xâm lăng này được yểm trợ và tiếp vận của khối Đệ Tam Quốc Tế. Điều này xoá bỏ luận điệu cho rằng cuộc chiến Việt Nam là một cuộc nội chiến. Thực chất, đây là một cuộc xâm lăng của khối cộng sản quốc tế thông qua bọn bán nước, tay sai Việt gian cộng sản.
30 Tháng 4 – 34 Năm Nhìn Lại
II – Tội Ác Chiến Tranh
Khi xâm lăng VNCH, cộng sản Bắc Việt đã phạm rất nhiều Tôi Ác Chiến Tranh được dự liệu tai Điều 8 của Đạo Luật Rome. Sau đây chỉ liệt kê tượng trưng 5 tội ác của chúng:
1 – Tội Ác Giết Người Có Chủ Tâm (Wilful killing)
a) Trong một bài nghiên cứu với tựa đề “Đàn Áp tại Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam:
Hành Hình và Phối Trí Dân Cư” “Repression in the Socialist Republic of Vietnam: Execution and Population Relocation” được phổ biến năm 1990, tác giả Jacqueline Desbarats đã xử dụng những nguồn tin chính thức của Việt cộng và phỏng vấn hơn 800 người Việt Nam tỵ nạn tại Pháp và Hoa Kỳ trong bốn năm để lấy tài liệu viết bài nghiên cứu này và ước tính rằng đã có ít nhất là 100.000 công dân của VNCH đã bị hành hình một cách phi pháp. “Extrajudicial, or summary, execution.” Tác giả đã nghiên cứu kỹ các hồ sơ và tìm thấy bằng chứng rằng cộng sản đã có một chương trình giết người sau năm 1975.
Sau tháng 4/1975, các uỷ ban quân quản và các toà án nhân dân được dựng lên trong khắp các thành phố tại Miền Nam VN để thi hành chương trình giết người phi pháp mà cộng sản đã hoạch định từ trước. Hai phần ba trong số 100.000 nạn nhân đã bị giết trong ba năm 1975, 1976 và 1977, số còn lại bi giết trong 7 năm tiếp theo. Những nạn nhân bị giết là những nhân viên của chính quyền VNCH gồm: các tỉnh trưởng, các quận trưởng, các thị trưởng, các thành phần cao cấp trong quân đội, các nhân viên cảnh sát, các nhân viên hành chánh và các thành phần tình báo. Những nạn nhân cũng gồm một số các nhà tư sản mại bản, một số các nhà lãnh đạo cộng đồng và tôn giáo, một số người Hoà Hảo, một số người tìm cách vượt biên và một số lớn những người tìm cách trốn khỏi các trại cải tạo. Cộng sản đã đưa ra lý lẽ mơ hồ như chống đối nhà nước để kết tội và giết người. Ngay cả những người từ chối ghi danh đi cải tạo cũng bị kết tội chống đối và bị giết.
Những vụ giết người có chủ tâm này đã được tính toán từ trước và không có một bảo đảm tối thiểu của một tiến trình luật pháp nào cả. Đây là một Tội Ác Chiến Tranh.
b) Trong tết Mậu Thân năm 1968, cộng sản đã tấn công và chiếm giữ được cố đô Huế trong 25 ngày. Ngay khi chiếm được thành phố, chúng cho bọn nằm vùng đi lùng sục từng nhà, tìm giết những người mà chúng có tên trong sổ đen. Tiếp sau đó, chúng lập những cái gọi là chính quyền cách mạng; chúng ra lệnh cho dân chúng đến trình diện; chúng giam giữ; sau đó chúng mang đi giết và thủ tiêu. Chúng lập những cái gọi là toà án nhân dân để kết án tử hình những người mà chúng cho là “chống đối cách mạng;” sau đó chúng cũng giết và thủ tiêu. Sau hết, trên đường tháo chạy khỏi Huế, chúng bắt một số người đi theo; chúng giết và thủ tiêu những người này. Sau này, dân chúng và chính quyền đã tìm được 22 hố chôn tập thể. Những nơi có nhiều hố chôn tập thể được biết đến nhiều nhất là trường tiểu học Gia Hội, Cồn Thông, Phú Thứ, Bãi Dâu, Khe Đá Mài… Tại Khe Đá Mài, vào tháng 9/1969, đã tìm thấy hơn 400 bộ hài cốt chỉ còn sọ và xương; da và thịt đã bị rã nát và bị nước cuốn trôi đi mất. Thân nhân các nạn nhân đã nhận diện được là nhờ những thẻ căn cước bọc nhựa, các giây chuyền và kỷ vật mang theo.
Tất cả các nạn nhân tìm thấy trong các hố chôn tập thể đều bị trói giật cánh khuỷu bằng dây điện thoại hay dây kẽm gai. Có nhiều nạn nhân chết trong tư thế đứng hay ngồi; điều đó chứng tỏ rằng họ đã bị chôn sống. Tại Huế, có hơn 4.000 gia đình có thân nhân bị giết hoặc mất tích. Con số 5.000 nạn nhân đã bị cộng sản thảm sát và thủ tiêu trong tết Mậu Thân năm 1968 là con số ước tính có xác xuất cao. Đây là những vụ giết người có chủ tâm và là Tội Ác Chiến Tranh.
2 – Tội Ác Tấn Công Có Chủ Tâm Vào Dân Chúng hoặc Những Cá Nhân Không Tham Gia Vào Cuộc Chiến.
a) Trong cuộc hành quân triệt thoái khỏi cao nguyên trung phần vào tháng 3/1975 của Quân Đoàn II trên tỉnh lộ 7B, đã có khoảng 200.000 dân chúng di tản theo quân đội. Cộng quân đã pháo kích và bắn trực xạ vào đoàn người chạy loạn. Chúng đuổi theo, tấn công liên tiếp một cách man rợ vào đoàn người này trong nhiều ngày suốt theo chiều dài của tỉnh lộ 7B. Chỉ có khoảng 40.000 người đã thoát được tầm đạn của chúng. Chúng đã giết 160.000 đồng bào vô tội gồm đàn bà và trẻ nhỏ. Những xác chết này không ai chôn cất, nằm phơi sương nắng ngoài trời, làm mồi cho chim chóc và muông thú. Số nạn nhân này gấp hai lần số nạn nhân của quả bom nguyên tử thả xuống thành phố Hiroshima của Nhật Bản ngày 6-8-1945. Đây là một Tội Ác Chiến Tranh.
b) Trên QL1 giữa Quảng Trị và Huế có một đoạn đường được đặt tên là “Đại Lộ Kinh Hoàng” vì những tội ác kính hoàng mà cộng quân đã gây cho người dân Quảng Trị. Trong mùa hè đỏ lửa năm 1972, người dân Quảng Trị chạy giặc cộng sản trên đoạn đường này đã bị cộng quân pháo kích như mưa bằng súng cối 61 ly và B40. Trên một đoạn đường dài 9km, nhầy nhụa máu, đầy những xác chết không toàn thây. Khi đi tìm kiếm và lượm xác, người ta đã thấy thi hài một cháu nhỏ đang ngậm vú thi hài người mẹ. Tuy không có con số thống kê chính xác nhưng số nạn nhân được ước đoán cũng phải trên mười ngàn người gồm người già, đàn bà và trẻ em. Đây là tội ác tấn công có chủ tâm vào dân chúng và là một Tội Ác Chiến Tranh.
3 – Tội Ác Pháo Kích Vào các Thành Phố, Thị Xã…Để Giết Dân
Trong cuộc chiến xâm lăng VNCH kéo dài 20 năm, Việt cộng đã pháo kích hàng ngàn lần vào các thành phố, thị xã, quận lỵ…để giết dân lành. Điển hình nhất là cuộc pháo kích của Việt cộng vào trường tiểu học Cai Lậy. Buổi sáng ngày 9-3-1973, khi hàng trăm học sinh của trường tiểu học tại thị trấn Cai Lậy đang xếp hàng để vào lớp thì Việt cộng pháo kích vào sân trường bằng súng cối 82 ly. Trận pháo kích man rợ này đã giết chết 34 cháu và làm bị thương cho 70 cháu. Cuộc pháo kích giết các cháu nhỏ một cách dã man này đã gây kinh hoàng và phẫn nộ cho toàn dân Miền Nam. Đây là một Tội Ác Chiến Tranh man rợ của quân cộng sản khát máu.

4 – Tội Ác Phá Hoại Những Di Tích Lịch Sử
Sau ngày 30-4-1975, quân xâm lăng cộng sản đã phá huỷ những di tích lịch sử của VNCH Chúng đập phá và san thành bình địa nhiều nghĩa trang được xây dựng đã hàng trăm năm. Nghĩa Trang Mạc Đĩnh Chi tại Saigòn, nơi chôn cất nhiều nhân vật lịch sử của Miền Nam Việt Nam, đã bị cộng sản san thành bình địa và xây trên đó một công viên mang tên Lê Văn Tám, một cái tên do tên cán bộ tuyên truyền Trần Huy Liệu phịa ra để tuyên truyền bịp bợm.
Với thú tính hận thù giai cấp, cộng sản đã phá huỷ hơn 50 nghĩa trang Quân Đội VNCH trong toàn Miền Nam Việt Nam. Chúng đào bới, lấy hài cốt mang đi thủ tiêu và san thành bình địa tất cả các nghĩa trang này.
Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hoà là Nghĩa Trang Quốc Gia của VNCH, nơi chôn cất 16.000 anh hùng tử sĩ QLVNCH, cũng bị cộng sản chủ tâm triệt hạ. Nghĩa Trang Quốc Gia này là một tập thể kiến trúc nhất quán đậm vẻ văn hoá truyền thống đặc thù của dân tộc Việt Nam từ cổng tam quan đến đền tử sĩ và nghĩa dũng đài cùng với cảnh quan tổng thể. Cộng quân đã không phá huỷ và san thành bình địa Nghĩa Trang này mà chúng tìm cách phá hoại tinh vi hơn. Chúng giật sập và mang đi thủ tiêu Bức Tượng Thương Tiếc, một bức tượng đã đi vào huyền thoại của lịch sử. Chúng không cho thân nhân thăm viếng, tảo mộ. Chúng chủ tâm để cho Nghĩa Trang bị hoang phế. Chúng đập phá các mộ bia, san bằng các ngôi mộ. Chúng đập phá Nghĩa Dũng Đài. Chúng để cho Nghĩa Trang bị lấn chiếm mất hơn một nửa diện tích. Và sau hết, để biến Nghĩa Trang Quốc Gia này thành một nghĩa địa dân sự và cải danh thành nghĩa địa Bình An, ngày 27-11-2006, tên thủ tướng cộng sản Nguyễn Tấn Dũng đã ký quyết định cho nguỵ quyền tỉnh Bình Dương: “Chỉ đạo việc quản lý nghĩa địa Bình An bình thường như các nghĩa địa khác theo quy định của chính phủ.”
Phá huỷ và triệt hạ Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hoà, một Nghĩa Trang Quốc Gia, một di sản lịch sử, không chỉ là Tội Ác Chiến Tranh mà còn là Tội Phá Hoại Văn Vật.
Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hoà – 34 Năm Nhìn Lại

5- Tội Cướp Bóc (Pillaging)
Khi xâm lăng VNCH, cộng sản đã hành sử như một lũ thổ phỉ đi ăn cướp:
a) Chúng cướp 16 tấn vàng trong ngân khố quốc gia của VNCH. Những tên đầu sỏ cộng sản đã chuyên chỏ số vàng ăn cướp này ra ngoài Bắc và dấm dúi chia nhau.
b) Chúng cướp tất cả kho tàng dự trữ của VNCH và chuyên chở ngày đêm về Miền Bắc bằng đường bộ, đường thuỷ và đường hàng không trong nhiều tháng trời.
c) Chúng ăn cướp nhà của những người vượt biên và chia cho nhau.
d) Chúng cưỡng bức người dân thành thị đi lưu đày tại những “vùng kinh tế mới” để chúng cướp nhà và chia cho nhau.
e) Chúng bắt người dân phải hiến nhà cho chúng trước khi xuất cảnh.
f) Chúng hạ thấp trị giá đồng tiền của VNCH và tổ chức đổi tiền hai lần để cướp tiền của dân. Mỗi lần đổi tiền, chúng chỉ trả lại cho người dân một số ít để chi tiêu trong một thời gian ngắn và chúng cướp sạch số còn lại.
g) Chúng tổ chức đánh tư sản mại bản để cướp tài sản, cướp cửa hàng và kho hàng của thương gia.
h) Chúng cướp các nhà máy, các xí nghiệp của tư nhân để thành lập các hợp tác xã của chúng.
i) Chúng cướp tiền của dân chúng ký thác tại các ngân hàng.
j) Chúng ăn cướp bất động sản của các tôn giáo.
k) Chúng dùng luật lệ rừng rú của chúng để cướp đất, cướp nhà của dân.
l) Chúng cướp ruộng của nông dân qua thủ đoạn “hợp tác hoá nông nghiệp.”
Tóm lại, bọn cộng phỉ đã cướp trắng tài sản quốc gia của VNCH và của cải của toàn dân Miền Nam Việt Nam đã chắt chiu, dành dụm hàng bao nhiêu đời. Toàn dân Miền Nam đã bị bần cùng hoá. Những tên đầu sỏ cộng sản đã chia nhau của ăn cướp và chúng đã trở thành những tên tư bản đỏ hàng trăm triệu dollars. Những bức hình chụp những đồ vật trang trí trong “dinh thự” tại Hà Nội của tên đầu sỏ cộng sản Lê Khả Phiêu – mới đưọc đưa lên hệ thống internet toàn cầu – đã tố cáo không thể chối cãi tội ăn cướp của chúng. Toàn là những thứ đi ăn cướp của Miền Nam.
III – Tội Ác Diệt Chủng
Điều 6 của Đạo Luật Rome đã định nghĩa Tội Ác Diệt Chủng là những hành động có chủ tâm tiêu diệt – toàn phần hay một phần – một nhóm dân tộc, sắc tộc, bộ tộc hay tôn giáo; những hành động đó là: (a) Giết các thành phần của nhóm; (b) Gây thương tích trầm trọng về thể chất và tinh thần cho các thành phần của nhóm; (c) Chủ tâm gây tác hại đến điều kiện sống với âm mưu tiêu diệt toàn thể hay một phần của nhóm.
Theo định nghĩa trên đây thì vụ “Cải Cách Ruộng Đất” tại Miền Bắc là Tội Ác Diệt Chủng của Hồ chí Minh nhằm tiêu diệt bốn thành phần – trí, phú, địa, hào – trong xã hội Miền Bắc.
Đầu năm 1950, từ khu rừng núi Bắc Việt, Hồ Chí Minh đã bí mật đi Liên Xô để cầu viện. Tại đây, Hồ Chí Minh đã gặp Stalin và Mao Trạch Đông. Stalin đã ra lệnh cho Hồ phải “Cải Cách Ruộng Đất.” Sau khi trở về Bắc Việt, Hồ đã tự tay viết một báo cáo bằng Nga ngữ về kế hoạch “Cải Cách Ruông Đất” gửi Stalin để xin chỉ thị.
Năm 1953 là năm bắt đầu kế hoạch “Cải Cách Ruông Đất.” Từng đoàn cố vấn Tầu và các đội cải cách – đã được Tầu huấn luyện – đằng đằng sát khí, mặt sắt đen sì, răng đen mã tấu đổ về các vùng quê để “phóng tay phát động quần chúng” thực hiện kế hoạch giết người. Theo lệnh của cố vấn Tầu, người bị Hồ Chí Minh cho bắn chết đầu tiên trong đợt thí điểm là bà Nguyễn Thị Năm tức bà Cát Thanh Long, một người yêu nước, chủ một đồn điền ở tỉnh Thái Nguyên và là ân nhân của cộng sản. Bà Năm đã từng giúp đỡ tiền bạc, nuôi dưỡng, che giấu những tên đầu sỏ cộng sản như Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Nguyễn Lương Bằng, Lê Thanh Nghị, Hoàng Quốc Việt… khi chúng còn sống chui nhủi trong rừng. Trong cuộc đấu tố bà Nguyễn Thị Năm, những nông dân bị chỉ định ra đấu tố bà Năm không một người nào kết tội người đàn bà phúc hậu và cũng là ân nhân của họ về những tội mà cộng sản bịa đặt cho bà. Nhưng cuối cùng, theo lệnh của cố vấn Tầu, cộng sản vẫn bày trò gian sảo để bắn chết người đàn bà ân nhân của chúng.
Cuộc đấu tố dã man này mà cộng sản gọi là “cuộc cách mạng long trời lở đất” kéo dài từ năm 1953 tới năm 1956 đã giết và bức hại 5% – chỉ tiêu do Mao Trạch Đông đặt ra – của 14 triệu nông dân Miền Bắc tức 700.000 người, những người nông dân chân chỉ đã cả ngàn năm cúi mặt xuống những cánh đồng ngập nước, đổi từng bát mồ hôi lấy những hạt gạo để nuôi cả dân tộc. Khắp nông thôn Miền Bắc ảm đạm, thê lương, trắng xoá khăn tang, đẫm máu và nước mắt.
Trong vụ “Cải Cách Ruông Đất” này, ngoài Tội Ác Diệt Chủng, Hồ Chí Minh còn phạm một tội
đại hình theo luật pháp quốc gia; đó là tội phản quốc, Việt gian.
IV- Tội Ác chống Nhân Loại
Điều 7 của Đạo Luật Rome đã liệt kê và định nghĩa 11 tội ác chống nhân loại. Trong gần một thế kỷ nay, cộng sản đã phạm ít nhất là 7 trong số 11 tội ác nói trên như sau:
1-Tội Ác Lưu Đầy hoặc Cưỡng Bức Di Dân (Deportation or Forcible transfer of Population)
Điều 7 của Đạo Luật Rome đã định nghĩa Tội Ác Lưu Đày hoặc Cưỡng Bức Di Dân như sau: “Cưỡng bức người ta ra khỏi nơi cư trú hợp pháp bằng cách trục xuất hay bằng những biện pháp bạo lực bất kể đến luật pháp quốc tế.”
Theo định nghĩa trên đây thì cộng sản đã phạm Tội Ác Chống Nhân Loại khi chúng cưỡng bức người dân Miền Nam đi những “khu kinh tế mới.”
Những thành phần mà cộng sản cưỡng bức đi vùng kinh tế mới gồm: 1) những người không có việc làm và có khó khăn về kinh tế; 2) những người có việc làm nhưng tạm thời có khó khăn và không có gì bảo đảm trong tương lai; 3) Gia đình các quân nhân và công chức có thân nhân đã và đang bị cải tạo; 4) những người có phương tiện sản xuất và trang cụ.
Để thực hiện kế hoạch tội ác này, cộng sản vừa phủ dụ vừa cưỡng bức. Cộng sản khoe khoang rằng trong năm đầu tiên, chúng đã đưa được nửa triệu người Saigon đi các vùng kinh tế mới và 80% trong số này là ra đi tình nguyện; như vậy có nghĩa là 100.000 người Saigon đã bị cộng sản cưỡng bức đi lưu đày tại các vùng kinh tế mới. Người dân Miền Nam đã âm thầm chống lại kế hoạch lưu đày này và cộng sản đã đe doạ sẽ bỏ tù hoặc đưa đi cải tạo những người chống đối. Người dân Miền Nam vẫn tiếp tục kiên trì chống đối và cộng sản cũng gia tăng cưỡng bức bằng cách tống xuất khỏi thành phố và tịch biên tài sản. Tuy nhiên, trước sự chống đối âm thầm nhưng cương quyết của người dân Miền Nam, cuối cùng thì cộng sản đã phải chấm dứt âm mưu đưa người dân Miền Nam đi lưu đày tại những “khu kinh tế mới.” sớm hơn theo kế hoặch dự trù của chúng.
Một trong những âm mưu đen tối của cộng sản khi cưỡng bức người dân Saigon đi vùng kinh tế mới là để cướp nhà và đưa gần một triệu người của chúng từ Miền Bắc vào Saigon. Cuối cùng thì cộng sản đã đưa được ít nhất là một triệu người Miền Nam đi lưu đày tại những khu “kinh tế mới.” Đây là Một Tội Ác chống Nhân Loại.
Tội Ác CSVN: Giam Cầm, Cải Tạo, Ly Tán Đồng Bào Miền Nam
2-Tội Giết Người (Murder)
Sau đây chỉ liệt kê một số ít những trường hợp giết người của cộng sản được biết đến nhiều nhất.
* Trong quãng thời gian từ 1945 đến 1954, cộng sản đã giết khoảng 50.000 đảng viên của các đảng phái quốc gia, trong đó có một số người được biết đến nhiều như: Nguyễn Thế Nghiệp, Nguyễn Ngọc Sơn, Đào Chu Khải, Trương Tử Anh, Lý Đông A và nhà văn Khài Hưng.
* Hai nhân vật quan trọng thuộc nhóm Bảo Hoàng là Phạm Quỳnh và Ngô Đình Khôi (cùng với con trai là Ngô Đình Huân) bị giết ngày 6-9-1945.
* Ba nhân vật nổi tiếng của Nhóm Đệ Tứ gồm Phan Văn Hùm và Trần Văn Thạch bị bắt ngày 10-8 1945 và bị mang đi chôn sống tại Bình Thuận. Tạ Thu Thâu bị giết tháng 9-1945 tại Quảng Ngãi.
* Các nhân sĩ và lãnh tụ chính trị của Miền Nam gồm: Ông Bùi Quang Chiêu cùng với bốn người con trai bị bắt tại Chợ Đệm ngày 29-9-1945, bị đem đi giết và bị thủ tiêu mất xác; Ông Hồ Văn Ngà bị bắt trong đêm khuya, bị đâm chết và bị thả trôi sông thuộc vùng Kim Quy, Đá Bạc, Rạch Giá; Ông Hồ Vĩnh Ký bị giết tại Dĩ An, Biên Hoà; Ông Huỳnh Văn Phương bị giết tại Tân An, Long An; Ông Phan Văn Chánh bị giết tại Sông Mao, Bình Thuận.
* Theo nguồn tin của Cao Đài Giáo cho biết thì chỉ trong ba tuần lễ kể từ ngày 19-8-1945, tại Quảng Ngãi, cộng sản đã giết 2791 tín đồ Cao Đài gồm đủ thành phần kể cả đàn bà và trẻ nhỏ. Số tín đồ Cao Đài bị giết trong toàn Miền Nam trong năm 1945 là khoảng 10.000 người.
* Đêm 16-4-1947, Giáo Chủ Huỳnh Phú Sổ bị cộng sản phục bắt tại Đốc Vàng Hạ; từ đó đến nay không có tin tức gì về Ngài. Theo thống kê của phật giáo Hoà Hảo thì cộng sản đã giết và chôn tập thể khoảng 10.000 tín đồ Hoà Hảo.
* Đêm 11-2-1957, Cô Nông Thị Xuân bị giết bằng búa đập vào đầu tại Phủ Chủ Tịch của Nhà Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Xác bị thủ tiêu. Hồ Chí Minh là chánh phạm vụ này.
3 – Tội Hiếp Dâm và Ép Buộc Mang Thai “Rape and Forced Pregnancy”
Theo Hiệp Định Geneve 1954, quân cộng sản phải rút về phía bắc vĩ tuyến 17. Trước khi rút khỏi những vùng do chúng kiểm soát, cộng sản đã tổ chức cho cán binh, cán bộ của chúng hiếp dâm tập thể – dưới hình thức hôn nhân giả mạo – tất cả những người con gái độc thân cho tới khi mang thai trước khi chúng ra đi. Khi đến tiếp thu những vùng này, Quân Đội Quốc Gia Việt Nam đã thấy có rất nhiều phụ nữ có con sơ sinh hoặc có thai nhưng không có chồng. Đây là Tội Ác Chống Nhân Loại man rợ của quân cộng sản vô nhân tính.
4 – Tội Ác Bắt Làm Nô Lệ (Enslavement)
Điều 7 của Đạo Luật Rome đã định nghĩa tội ác Bắt Làm Nô Lệ như sau: Bắt làm nô lệ có nghĩa là xử dụng quyền lực để tước đoạt quyền tư hữu của một người gồm cả việc xử dụng quyền lực để buôn người, đặc biệt là đối với đàn bà và trẻ em.
Căn cứ vào định nghĩa trên, cộng sản đã phạm các Tội Ác chống Loài Người sau đây:
- Xuất cảng hàng trăm ngàn lao động để kiếm lời là một hình thức buôn người
- Tổ chức hàng chục ngàn cuộc hôn nhân trá hình để đưa đàn bà Việt Nam đi làm nô lệ tình dục cho đàn ông nước ngoài để kiếm lời là tội buôn người.
- Bán hàng ngàn trẻ em và thiếu nữ vào các động điếm tại Cam Bốt và các nước trong vùng Đông Nam Á để kiếm lời là tội buôn người.
- Bắt hàng triệu người tù trong các trại cải tạo sản xuất hàng hoá để bán ra ngoài thị trường là phạm tội tước đoạt quyền tư hữu của con người, bởi vì những sản phẩm này do người tù sản xuất ra là thuộc quyền sở hữu của họ nhưng đã bị cộng sản tước đoạt và đem bán. Những người tù này đã bị đối xử như những nô lệ lao động thời trung cổ.
Tệ Nạn Buốn Bán Phụ Nữ, Trẻ Em và Người Lao Động tại Việt Nam

5 – Tội Giam Người hoặc Tước Đoạt Tự Do Thân Thể Một Cách Nghiêm Trọng, Vi Phạm Những Quy Luật Cơ Bản của Luật Pháp Quốc Tế “Imprisonment or severe deprivation of physical liberty in violation of fundamental rules of international law”
Theo các tài liệu nghiên cứu có tính hàn lâm đã được phổ biến tại Hoa Kỳ và Âu Châu thì sau khi chiếm được Miền Nam Việt Nam, Cộng sản đã đưa 1.000.000 quân, dân, cán, chính của VNCH vào tù trong 150 trại cải tạo trong rừng núi từ Nam ra Bắc. Có nhiều người đã bị giam cầm tới 17 năm và theo Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ thì đa số thời gian bị giam giữ là từ ba tới 10 năm Đây là một sự giam cầm phi pháp, không qua một thủ tục pháp lý nào cả và là Tội Ác Chống Loài Người.
6 – Tội Thủ Tiêu Mất Tích Người “Enforced Disappearance of persons”
Cũng theo tài liệu nghiên cứu nói trên, trong thời gian giam cầm phi pháp 1.000.000 quân dân, cán, chính VNCH trong 150 trại cải tạo, cộng sản là thủ phạm đã gây ra những cái chết bằng tra tấn, hành hạ, bỏ đói, bắt làm khổ sai quá sức, xử bắn… cho ít nhất là 165.000 người. Cộng sản không thông báo tin tức cho gia đình người chết; giấu kín nơi chôn cất suốt 34 năm nay; không cho thân nhân bốc mộ, mang hài cốt về quê quán. Đây là Tội Thủ Tiêu Mất Tích Người và là Tội Ác chống Loài Người. Ngoài ra, đây còn là môt hành vi vô đạo, phi nhân tính gây đau khổ tinh thần triền miên suốt đời cho thân nhân các người chết mà nghị quyết 1481 của Nghị Viện Âu Châu có nói tới.
7 – Tội Đàn Áp chống Lại Một Nhóm hay Một Tập Thể có Tính Danh về … Tôn Giáo …“Persecution against identifiable group or collectivity on…religious…”
Điều 7 của Đạo Luật Rome đã định nghĩa đàn áp (persecution) như sau: đàn áp là sự tước đoạt có chủ tâm và thô bạo những quyền cơ bản trái với luật pháp quốc tế.
Căn cứ vào định nghĩa trên đây thì việc nguỵ quyền cộng sản đã và đang đàn áp một cách quy mô và có hệ thống các tôn giáo tại Việt Nam là Một Tội ác Chống Loài Người. Tội ác này đã và đang được cộng đồng thế giới đặc biêt quan tâm. Trên các trang nhà của các tổ chức như: Human Rights Watch, The United States Commission on International Religious Freedom, The Committee for Religious Freedom in Vietnam… đều có theo rõi và phổ biến tin tức về những vụ đàn áp tôn giáo thường xuyên tại Việt Nam.
Năm 2004, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã đưa nguỵ quyền cộng sản vào danh sách “Những Nước Đặc Biệt Quan Tâm” “Countries of Particular Concern – CPC” vì lý do Đàn Áp Tôn Giáo. Nhưng năm 2006, Tổng Thống George W, Bush – vì những quyền lợi kinh tế của Hoa Kỳ – đã rút nguỵ quyền cộng sản ra khỏi danh sách CPC. Tuy nhiên, kể từ đó đến nay, hàng năm Uỷ Ban Quốc Tế về Tự Do Tôn Giáo của Hoa Kỳ (The U.S. Commission on International Religious Freedom) cũng yêu cầu Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đưa Việt cộng trở lại danh sách CPC.
Ngoài những tội ác trong bốn nhóm tội ác được dư liệu tại Đạo Luật Rome trên đây, Việt cộng còn là thủ phạm của những siêu tội ác vượt ra ngoài sự tưởng tượng của con người. Sau đây là hai trường hợp điển hình:
1) Một cách bán chính thức, cộng sản thu vàng của dân để tổ chức những cuộc vượt biên. Khi thuyền vượt biên ra đến hải phận quốc tế, chúng cho công an dùng thuyền cao tốc đuổi theo, bắn chìm thuyền và giết hết những người đã nộp tiền cho chúng. Tên công an Nguyễn Tấn Dũng là một trong những thủ phạm của những vụ cướp của, giết người dã man này.
2) Sự quyết tâm trả thù một cách phi pháp (extrajudicial retribution) của Việt cộng đối với người dân Miền Nam đã xô đẩy trên ba triệu người Miền Nam phải rời bỏ quê cha đất tổ, lao ra biển trên những chiếc thuyền mỏng manh, gây ra những cái chết thảm cho 700.000 thuyền nhân trên Biển Đông và hàng chục ngàn bộ nhân chết trong rừng. Thảm hoạ chưa từng có trong lịch sử loài người này đã gây bàng hoàng và đánh thức lương tri nhân loại từng ngày trong hai thập niên 70 và 80 của thế kỷ trước. Thế giới đã nhìn rõ bộ mặt phi nhân của cộng sản và đã mở rộng vòng tay nhân ái để cứu hàng triệu người Việt Nam chạy trốn cộng sản. Bọn tội phạm Việt cộng đang tìm cách xoá bỏ tội ác này bằng cách áp lực chính phủ Nam Dương xoá bỏ di tích trại tỵ nạn Galang, nơi tạm trú của hơn 200.000 thuyền nhân trước khi được đi định cư tại một nước thứ ba. Đây là chứng tích siêu tội ác của cộng sản đối với đồng bào của chúng mà ngày nay chúng gọi là khúc ruột ngàn dặm và kêu gọi hoà hợp hoà giải với chúng.
Kết Luận
Trúc trên rừng cũng không ghi hết 80 năm tội ác của Hồ Chí Minh và đồng đảng đối với dân tộc Việt Nam. Phần trình bày sơ lược một số tội ác của cộng sản trên đây là để chỉ đích danh từng tội ác của chúng trong bốn nhóm tội ác nghiêm trọng đươc cộng đồng quốc tế đặc biệt quan tâm. Sau này, khi một toà án thụ lý và xét xử những tên chánh phạm Việt cộng, phòng công tố của toà án sẽ điều tra đầy đủ những tội ác của chúng.
Tội ác của cộng sản đối với dân tộc Việt Nam không chỉ là những tội ác hình sự mà còn là những tội ác lịch sử. Các sử gia Việt Nam có nhiệm vụ truy cứu và thẩm định những tội ác lịch sử của chúng. Đây là một nhiệm vụ quan trọng để làm sáng tỏ những sự thật lịch sử đã bị những thủ đoạn tuyên truyền gian manh của cộng sản xuyên tạc và bóp méo trong 80 năm nay. Về phương diện pháp lý, những thủ phạm phải bị mang ra xét xử tại một toà án đáp ứng được những tiêu chuẩn quốc tế về công lý bởi vì những tội ác của cộng sản là những tội ác mang tính quốc tế.
Lần đầu tiên trên thế giới đã có một toà án hình sự có tính quốc tế đang xét xử bọn tội phạm cộng sản. Đó là Toà Án Đặc Biệt Cam Bốt có tên Anh ngữ là “Extraordinary Chambers in The Courts of Cambodia” đang xét xử bọn tội phạm cộng sản Khờ Me Đỏ tại Nam Vang.
Năm 1997, chính phủ Cam Bốt đã yêu cầu Liên Hiệp Quốc trợ giúp thành lập một toà án để xét xử các lãnh tụ Khờ Me Đỏ. Năm 2001, Quốc Hội Cam Bốt đã thông qua một đạo luật thành lập một toà án để xét xử những tội ác nghiêm trọng mà Khờ Me Đỏ đã phạm trong thời gian từ 1975 tới 1979. Chính phủ Cam Bốt nhấn mạnh rằng vì lợi ích (hoà giải) của dân tộc Cam Bốt, toà án phải được mở ra trên lãnh thổ Cam Bốt. Và để đáp ứng được những tiêu chuẩn luật pháp quốc tế, chính phủ Cam Bốt sẽ mời các thẩm phán và công tố viên ngoại quốc để cùng làm việc với các thẩm phán và công tố viên người Cam Bốt. Tháng 6-2003, Liên Hiệp Quốc và Cam Bốt đã đạt được thoả thuận cuối cùng về cách thức mà cộng đồng quốc tế sẽ trợ giúp và tham dự vào Toà Án Đặc Biệt Cam Bốt.
Toà Án Đặc Biệt Cam Bốt được thành lập bởi Chính Phủ Cam Bốt và Liên Hiệp Quốc, nhưng toà án này hoàn toàn độc lập và hoạt động theo những tiêu chuẩn quốc tế. Ngày 31-7-2007, các đồng thẩm phán điều tra ((the co-investigating judges) đã ban hành lệnh bắt giữ đầu tiên và năm thủ phạm đã bị bắt giam gồm những tên sau đây.
*Kaing Guek Eav, Alias Duch, cựu trưởng trại tù S-21, bị kết tội ác chống nhân loại.
*Nuon Chea, cựu chủ tịch quốc hội, bị kết tội ác chống nhân loại và tội ác chiến tranh.
* Ieng Sary, cựu bộ trưởng ngoại giao, bị kết tội ác chống nhân loại và tội ác chiến tranh.
* Ieng Thirith, cựu bộ trưởng xã hội, bị kết tội ác chống nhân loại.
* Khiêu Samphan, cựu thủ tướng, bị kết tội ác chống nhân loại và tội ác chiến tranh.
Phiên toà đầu tiên xử thủ phạm Kaing Guek Eav, Alias Duch đã mở ra ngày 17-2-2009 và vẫn còn đang tiếp diễn. Thủ phạm tiếp theo sẽ bị mang ra xử là Nuon chea.
Tám mươi năm tội ác của cộng sản đối với dân tộc Việt Nam đã hiển nhiên, không thể chối cãi. Và như đã nói ở trên, những di sản độc hại của thứ văn hoá xã hội chủ nghĩa rừng rú đã di căn vào mọi ngõ ngách trong đời sống xã hội tại Việt Nam hôm nay, và còn tiếp tục gây tác hại nghiêm trọng chừng nào cộng sản còn thống trị đất nước. Việc lên án những tội ác của chúng là một bổn phận của lương tri và đạo đức của mọi người Việt Nam.
Việc thẩm định một cách chính xác và khách quan những tội ác của cộng sản và đưa những chánh phạm ra xét xử trước công lý là một điều cần thiết bởi vì công lý là một thành tố không thể thiếu trong tiến trình của sự hoà giải dân tộc. Công lý cũng cần thiết trong việc tái lập những quan hệ hoà bình và bình thường giữa những người đã phải sống dưới sự thống trị của khủng bố cộng sản. Công lý xoá bỏ chu kỳ bạo lực, sự thù hận và sự trả thù vô luật pháp. Như vậy, hoà bình và công lý sánh bước cùng nhau. Và sau hết, công lý còn cần thiết để trả lại danh dự cho những nạn nhân còn sống sót và gia đình của những nạn nhân đã chết. Tóm lại, để hoà giải dân tộc, phải mang những kẻ phạm tội ra trước công lý và mang công lý tới cho những nạn nhân.
Sau khi chế độ cộng sản Việt Nam bị xoá bỏ, ngoài công việc rất khó khăn là phải tháo gỡ và tẩy sạch những di sản độc hại do chế độ phi dân tộc, vô tổ quốc này để lại, việc thành lập một toà án hình sự có tính quốc tế – như Toà Án Đặc Biệt Cam Bốt – trên lãnh thổ Việt Nam để xét xử bọn chánh phạm cộng sản là điều tiên quyết trong tiến trình hoà giải dân tộc. Đó là con đường công chính duy nhất đưa đến hoà giải để thống nhất ý chí và tư tưởng của dân tộc đã bị phân hoá và chia rẽ bởi những di sản độc hại của chế độ cộng sản và để tái xây dựng một Quốc Gia Việt Nam văn minh, dân chủ, pháp trị và đoàn kết để phát triển đất nước và chống lại những âm mưu bành trương ngàn đời từ phương bắc.
Sớm hay muộn, bằng cách này hay cách khác, chế độ phi nhân cộng sản Việt Nam sẽ bị bánh xe lịch sử nghiền nát; khi đó, một Đài Tưởng Niệm phải được dựng lên trên đất nước để tưởng niệm năm triệu nạn nhân của cộng sản. Ngoài ra, còn phải xây một Viện Bảo Tàng Tội Ác của Cộng Sản để làm bài học lịch sử cho các thế hệ tương lai. Trong khi chờ đợi, cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản lớn nhất trên thế giới tại Hoa Kỳ nên góp công sức để xây – tại một khu Little Saigon – một Đài Tưởng Niệm Năm Triệu Nạn Nhân của Cộng Sản Việt Nam. Đây là một trách nhiệm lịch sử của người Việt quốc gia.
Sau hết, cần phải chính danh một cái danh xưng đã bị lộng giả thành chân suốt 80 năm nay. Những người cộng sản già thường được đồng đảng của họ tung hô là những nhà cách mạng lão thành. Đây là một Nguỵ Danh để che giấu cái bản chất thực của họ. Chính Danh của họ là những tên Việt gian, tay sai cho Đệ Tam Quốc Tế; những tên tội phạm quốc tế đã đi gây tội ác khắp ba nước Đông Dương dưới cái chiêu bài đi làm “nhiệm vụ quốc tế.” Họ chính là thủ phạm đã phân hoá và chia rẽ dân tộc suốt 80 năm nay. Do đó, những người cộng sản đã cướp và duy trì chính quyền bằng bạo lực cách mạng vô sản – tức bằng khủng bố – tại Việt Nam hôm nay không có tư cách gì để đứng ra kêu gọi hoà hợp hoà giải dân tộc. Chỗ đứng – sớm hay muộn – của các người là trước vành móng ngựa như chỗ đứng của bọn tội phạm cộng sản Khờ Me Đỏ hiện nay. Những người chủ trương hoà hợp hoà giải với cộng sản là những kẻ đồng loã với những tội ác của chúng.
Đỗ Ngọc Uyển
(Khoá 4 Thủ Đức)
Tháng 8 năm 2009
San Jose, California
http://www.phanchautrinhdanang.com/

Thứ Hai, 16 tháng 2, 2009

VIET CONG CANG TAN BAO THI NHAN DAN CANG CAM THU VIET CONG

Khối 8406
Tuyên ngôn Tự do Dân chủ cho Việt Nam 2006
Web: http://khoi8406vn.blogspot.com/ Email: vanphong8406@gmail.com

Tuyên bố 9 điểm về tình hình Việt Nam hiện nay


Việt Nam ngày 12 tháng 02 năm 2009
Kính gửi: Đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước.
Đồng kính gửi: Cộng đồng thế giới dân chủ.
Sau khi bản Tuyên ngôn tự do dân chủ cho Việt Nam được công bố trên toàn thế giới vào ngày 8-4-2006, Khối 8406 (tên gọi theo ngày này) đã được thành lập như một tổ chức quần chúng đấu tranh gồm hàng chục ngàn người Việt Nam trong và ngoài nước, nhằm mục tiêu giành lại các quyền tự do dân chủ cho dân tộc Việt Nam bằng con đường hòa bình bất bạo động. Những quyền thiêng liêng này đã bị các thế hệ lãnh đạo trong đảng cộng sản Việt Nam ngang nhiên tước đoạt của dân tộc trong suốt hơn 63 năm qua (2/9/1945 – tháng 2/2009).
Trong năm 2008 vừa qua, tình hình quốc tế đã trải qua rất nhiều biến động, có ảnh hưởng lớn đến tất cả các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh, quốc phòng,… của Việt Nam.
1) Về kinh tế:
+ Lạm phát gia tăng, sản xuất và dịch vụ đi xuống, đời sống của tuyệt đại đa số người dân Việt Nam gặp khó khăn chồng chất. Nhiều người lao động bị mất việc làm và không còn thu nhập. Việt Nam lại chẳng có hệ thống an sinh xã hội để bảo đảm mức sống tối thiểu cho người thất nghiệp, cho những kẻ nghèo không nơi nương tựa. Họ đã và đang bị bần cùng hóa một cách thê thảm.
+ Tình trạng khốn khổ này không những xảy ra với dân thường mà còn với cả những người ngay chính, không chịu làm trái lương tâm trong hệ thống công quyền, kể cả trong lực lượng công an và quân đội. Tất cả họ - vốn chiếm đa số trong xã hội - đều thuộc tầng lớp bị trị mà quyền lợi đã và đang bị một thiểu số thống trị trong bộ máy cầm quyền ở Việt Nam hôm nay tham muốn nuốt trọn.
+ Những giải pháp chống lạm phát, chống suy thoái kinh tế do nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam (NCQ CSVN) đưa ra, tuy bước đầu đạt được vài kết quả nhất định. Thế nhưng xét về thực chất, đó chỉ là những kết quả nửa vời, thiếu căn bản, không giải quyết được tận gốc vấn đề. Các tệ trạng nhất định sẽ bùng phát trở lại ngay trong năm 2009 này. Bởi vì, nguyên nhân sâu xa của chúng là thể chế chính trị độc tài toàn trị vốn vẫn còn y nguyên.
+ Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới trong năm 2008 vừa qua cũng đã tác động xấu đến Việt Nam. Tuy nhiên, phải khẳng định rằng: sự yếu kém toàn diện của bản thân nền kinh tế Việt Nam mới là nguyên nhân chính và đã tiềm ẩn trước khi khủng hoảng kinh tế thế giới xảy ra, bởi lẽ đó là sự pha trộn kỳ quặc giữa tính chất thị trường cạnh tranh với tính chất “xã hội chủ nghĩa”.
2) Về chính trị:
+ Thế kỷ 21 đã bắt đầu được hơn 8 năm với sự nở rộ của nền dân chủ trên toàn thế giới, nhưng dân tộc Việt Nam vẫn còn phải chịu ách áp bức, bóc lột của một thể chế chính trị độc tài toàn trị, phi nhân bản, phản dân tộc và đi ngược lại các quy luật khách quan. Suốt hơn 63 năm qua, chế độ này luôn tập trung quyền lực vào tay một thiểu số lãnh đạo chính trị bất lương trong đảng cộng sản Việt Nam. Điều này đã triệt tiêu mọi khả năng cống hiến cho quốc gia dân tộc của rất nhiều con dân ưu tú, của những lực lượng chính trị tốt hảo, trong từng giai đoạn xây dựng và phát triển của đất nước. Chế độ này vẫn đang tiếp tục thực thi một chính sách khủng bố khốc liệt nhằm trói tay, bịt miệng tất cả những người Việt Nam yêu nước dám dũng cảm đứng lên đấu tranh giành lại các quyền tự do dân chủ. Nó không hề lấy sự ủng hộ của lòng dân để xây dựng và phát triển đất nước mà lại lấy bạo lực và lừa bịp làm phương tiện để tồn tại. Những biểu hiện ra bên ngoài của nó là nạn tham nhũng, lãng phí và hủy hoại môi trường rộng khắp; là cảnh áp bức, bất công, đói nghèo và tụt hậu đầy dẫy; là thói mua quan, bán chức nhan nhản, là sự giảm thiểu đạo đức xã hội và gia tăng đủ loại tội ác; là sự xâm phạm ngày càng nghiêm trọng đến an ninh cá nhân và xã hội, đến an ninh dân tộc và quốc gia (biên giới đất và biên giới biển).
Tóm lại, những hệ quả xấu xa và nguy hiểm của chế độ này chẳng những là sự tụt hậu về kinh tế mà còn là sự suy đồi về tất cả các mặt của đời sống đất nước như: đạo đức, giáo dục, y tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, ngoại giao, v.v… Tất cả đang đẩy dân tộc ta vốn có nền văn hiến hàng ngàn năm vào sự suy vong khó tránh khỏi. Điều này thật dễ hiểu, khi mà tập đoàn cầm quyền luôn đặt quyền lợi của họ lên trên quyền lợi của quốc gia, dân tộc. Tập đoàn ấy, với Điều 4 của Hiến pháp hiện hành, đã tự quy định cho họ được độc quyền lãnh đạo đất nước vô thời hạn và không hề bị một cơ chế kiểm soát và giám sát nào. Vì vậy họ đã và đang ngày càng tác oai tác quái, đè đầu cưỡi cổ dân tộc. Điều này giải thích vì sao ông Nguyễn Minh Triết, chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam hiện nay, từng phát biểu vào ngày 27-8-2007 rằng: “Dù ai có nói ngả nói nghiêng, dù ai có muốn bỏ điều 4 Hiến pháp thì cũng không có chuyện đó được. Bỏ cái đó đồng nghĩa với chúng ta tuyên bố chúng ta tự sát...”. Hậu qủa là: Trong xã hội Việt Nam nhiễu nhương và suy đồi hôm nay, những cái cần mất thì lại còn (do dã tâm muốn duy trì) và những cái cần còn thì lại mất (do dã tâm muốn loại bỏ) của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam!
• Trước tình hình trên, Khối 8406 chúng tôi kêu gọi mọi người Việt Nam còn yêu nước thương nòi, không phân biệt già trẻ trai gái, không phân biệt tôn giáo, sắc tộc, hoàn cảnh xuất thân, giai tầng xã hội, địa điểm sinh sống, v.v… hãy cùng đoàn kết đứng lên đấu tranh để thay thế triệt để chế độ độc đảng, độc tài và phản dân tộc này bằng một chế độ dân chủ, đa nguyên đa đảng và pháp trị tiến bộ trong tương lai, bằng những việc làm cụ thể sau đây:
1) Tiếp tục vạch trần sự thối nát, mục ruỗng toàn diện của chế độ độc tài toàn trị hiện nay; vạch trần sự lũng đoạn bất lương của một thiểu số cầm quyền, đặc biệt là của 15 ủy viên Bộ chính trị Đảng cộng sản Việt Nam đương chức, đang hàng ngày hàng giờ tàn phá đất nước, dân tộc này!
2) Ủng hộ sáng kiến mở chiến dịch khiếu kiện trước Liên Hiệp Quốc về những vi phạm nhân quyền của NCQ CSVN. Đòi họ phải cho đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng ở Việt Nam 3 văn kiện quan trọng (xin xem phần phụ lục). Đó là:
+ Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền của Liên hiệp quốc (1948).
+ Công ước quốc tế về những quyền dân sự và chính trị (1966).
+ Công ước quốc tế về những quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (1966).
Nội dung của 3 văn kiện đó chứa đựng những quyền tự do căn bản, mà mọi người trên khắp thế giới đều được hưởng. Nhà nước CHXHCNVN đã ký tất cả 3 văn kiện này vào năm 1982 để lừa mị thế giới tiến bộ, nhưng họ lại luôn cố tình vi phạm chúng ở Việt Nam. Thậm chí tuyệt đại đa số người dân trong nước cũng không hề biết là có chúng. Do đó, trên tinh thần tích cực và chủ động, Khối 8406 kêu gọi các thành viên của mình và mọi người Việt Nam yêu nước ở khắp nơi, bằng tất cả khả năng của mình, hãy chuyển tải được càng nhiều càng tốt 3 văn kiện trên đến với người dân Việt Nam trong nước (thành thị, nông thôn, trung du, sơn cước lẫn đồng bằng). Cần coi đây là một chiến dịch trọng điểm của năm 2009, gắn chặt nó với sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa nhằm giành lại tự do dân chủ cho Dân tộc!
3) Lên án các cuộc đàn áp, theo dõi, bắt bớ, đánh đập, khám nhà, gọi thẩm vấn, tịch thu tài sản, đuổi việc, xử phạt hành chính, giam tù,… của NCQ CSVN đối với những tiếng nói đấu tranh cho các quyền tự do dân chủ. Đòi họ phải thả các tù nhân chính trị, tù nhân tôn giáo; phải để cho những người đấu tranh dân chủ tự do gặp gỡ, hội họp với nhau và với các nhà hoạt động nhân quyền, lãnh đạo chính trị trên thế giới. Tiếp tục khẳng định và chủ động thực thi các quyền tự do căn bản của con người như: tự do tôn giáo tín ngưỡng, thông tin ngôn luận, lập hội lập đảng, biểu tình để đòi các quyền dân sinh, dân chủ, đòi quyền tự quyết cho dân tộc,…
4) Lên án các cuộc đàn áp của NCQ CSVN đối với các cá nhân và tập thể dân sự lẫn tôn giáo đấu tranh đòi lại đất đai bị NCQ CSVN cướp đoạt trên khắp đất nước. Ca ngợi sự ủng hộ của quốc tế đối với cuộc đấu tranh này. Đồng thời, chủ động xây dựng một bản dự thảo Hiến pháp đa đảng, trong đó quyền tư hữu tài sản của công dân, đặc biệt quyền tư hữu về đất đai được tôn trọng và chế độ hộ khẩu bị dứt khoát bãi bỏ.
5) Lên án công hàm bán nước do ông Phạm Văn Đồng ký ngày 14 tháng 9 năm 1958 và 2 Hiệp định ký trong 2 năm 1999 - 2000 giữa Việt Nam và Trung Quốc (về đất và biển). Đòi NCQ CSVN phải đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng 3 văn kiện này cùng những bản đồ và biên bản về các cột mốc biên giới hiện nay song song với Hiệp ước Thiên Tân Pháp - Thanh ký vào năm 1885, để nhân dân Việt Nam có cơ sở so sánh, xem dân tộc đã bị thiệt hại như thế nào. Đòi NCQ CSVN phải cảnh giác và phải chịu trách nhiệm trước dân tộc và lịch sử về các âm mưu xâm nhập gặm nhấm, cắm dân cài người của nhà cầm quyền cộng sản Trung Quốc ở các tỉnh biên giới phía Bắc, ở vùng Tây Nguyên và ở bất cứ vùng đất, vùng trời và vùng biển nào của Tổ quốc Việt Nam!
6) Tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ về mọi mặt của thế giới dân chủ. Đề nghị họ hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, ngoại giao, quân sự, an ninh, văn hóa, giáo dục v.v… với Việt Nam song song với việc yêu cầu và áp lực NCQ CSVN phải tôn trọng các quyền tự do cơ bản của người dân.
7) Lên án cuộc thảm sát Thiên An Môn năm 1989 và những cuộc đàn áp gần đây của nhà cầm quyền Bắc Kinh đối với phong trào dân chủ và dân sinh ở Trung Quốc. Ủng hộ bản Hiến chương 08 (Linh bát Hiến Chương) của các nhà dân chủ nước này được công bố vào ngày 10-12-2008). Đồng thời, kêu gọi sự liên minh, liên kết của các lực lượng đấu tranh dân chủ trong lòng các chế độ độc tài còn sót lại trên thế giới như: Trung Quốc, Việt Nam, Cu Ba, Bắc Hàn.
8) Xây dựng và tăng cường sự đoàn kết đích thực trong nội bộ phong trào dân chủ, với nguyên tắc hợp nhất trong đa diện (nghĩa là chung mục tiêu xóa bỏ chế độ độc tài, xây dựng tự do dân chủ với những phương cách khác biệt). Đồng thời, đấu tranh mạnh mẽ và sáng suốt với âm mưu lũng đoạn thao túng, chia rẽ phá hoại của bộ máy công an cộng sản giữa lòng phong trào dân chủ.
9) Mời gọi Đồng bào Việt Nam ở ngoài nước khi có điều kiện hãy về sát cánh với đồng bào trong nước để cùng đấu tranh cho dân chủ. Xin Đồng bào đừng để mình bị Nghị quyết 36 của bộ chính trị đảng CSVN lừa gạt.
Việt Nam ngày 12 tháng 2 năm 2009.

Ban điều hành lâm thời Khối 8406.
1) Kỹ sư Đỗ Nam Hải – Sài Gòn – Việt Nam.
2) Trung tá Trần Anh Kim – Thái Bình – Việt Nam.
3) Linh mục Phan Văn Lợi – Huế – Việt Nam.
4) Giáo sư Nguyễn Chính Kết (đang vận động dân chủ tại hải ngoại)

(trong sự hiệp thông của linh mục Nguyễn Văn Lý, nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa và nhiều chiến sĩ dân chủ khác, hiện còn đang bị giam cầm trong lao tù cộng sản.)

TOI AC CAN PHAI DUOC TRUNG TRI

Thù Hận VC !!! Tại Sao Không….???

Nếu có người nào đó hỏi tôi:

Hỏi: Ông có căm thù giặc Tàu không?

Trả Lời: Tôi căm chúng đến tận xương tủy

Hỏi: Ông có căm thù giặc Pháp không?

Trả lời: Cũng vậy thôi

Hỏi: Ông có căm thù giặc Nhật không?

Trả lời: Cũng không ngoại lệ

Hỏi: Có giặc nào ông không căm thù không?

Trả lời: Đã là giặc thì không thể không căm thù

Hỏi: Vậy căm thù thì ông sẽ làm gì?

Trả lời: Tôi sẽ nuôi dưỡng ý chí căm thù, để một ngày kia có thể phanh thây uống máu quân thù, đuổi chúng ra khỏi đất nước tôi.

Hỏi: thế theo ông thì những ai là giặc?

Trả lời: Bất cứ kẻ nào muốn thống trị dân tộc Việt Nam, chà đạp họ vì quyền lợi của chúng, đó là kẻ thù của dân tộc. Chẳng phải kẻ thù được dịch nghĩa ra là kẻ đáng bị căm thù đó sao!!! Đã là giặc thì không thể không căm thù…..

Dân tộc Việt Nam đã tồn tại và phát triển hơn 4000 năm nay, trong lịch sử họ có rất nhiều kẻ thù, nào Tàu, nào Pháp, nào Nhật, vv…. Trong lịch sử chưa có ai phán xét những người căm thù giặc là vô lý, là cực đoan cả mà hầu hết họ đều được coi là …. Yêu Nước. Tại sao chúng ta lại căm thù chúng??? Là bởi vì lũ Tàu ô đến Việt Nam mới âm mưu cướp nước, thống trị người Việt Nam, chà đạp văn hóa Việt, tìm cách xóa sổ sự tồn tại của dân tộc Việt. Lũ Pháp hay Nhật cũng vậy, chúng cũng đến Việt Nam với tư cách là kẻ thống trị, chúng cưỡng bức người Việt phải làm việc cho chúng, khai thác tài nguyên quốc gia để làm giàu cho chúng, nhổ lúa trồng đay để phục vụ cho bộ máy chiến tranh của chúng vv….và vv…. Tội ác của chúng không bao giờ rửa sạch được. Đó là …. Kẻ Thù.!!!

Vậy ai là bạn?

Khi người ta nói đến chữ “bạn” điều đó đồng nghĩa với một mối quan hệ trong sự cư xử bình đẳng, tôn trọng và không vụ lợi. Nếu ai còn chưa rõ thì xin đọc mấy vần thơ trong bài “Bạn đến chơi nhà” của cụ Nguyễn Khuyến:

Đã bấy lâu nay bác tới nhà
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa
Ao sâu nước cả, khôn chài cá
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà
Cải chửa ra hoa, cà mới nụ
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa
Dầu trò tiếp khách, trầu không có
Bác đến chơi đây, ta với ta

Đã là bạn, thì đến với nhau đâu phải vì vật chất đời thường, nói nôm na là không phải vì chữ lợi; gà, cá, rau, dưa không có đã đành, nhưng ngay miếng trầu là đầu câu chuyện cũng không luôn. Vậy mà bác vẫn đến chơi đây, và vẫn ta với ta….

Ai là anh em?

Tục ngữ Việt Nam vốn có câu “anh em như thể tay chân”, nói một cách khác những người coi chúng ta như là một phần của cơ thể họ; khi chúng ta đau họ cũng đau; khi chúng bị tổn thương họ cũng thương tổn. Đó chính là quan hệ anh em hay nhiều người vẫn gọi là huynh đệ theo cách gọi bằng ngôn từ Hán-Việt.

Việt Gian Cộng Sản là ai?

Có lẽ nhiều người trong số chúng ta vẫn còn nhầm lẫn, hoặc cố tình giả vờ nhầm lẫn khi coi những kẻ theo Cộng Sản là “những người anh em lầm đường lạc lối”. Nhiều, rất nhiều những lý luận đã cho rằng đó là những kẻ cuồng tín, đó là những kẻ đi theo một chủ thuyết ngoại lai mà chưa nhận ra được cái sai lầm của họ. Và vì họ là những người mang dòng máu Việt, nói tiếng Việt cho nên đó là những người anh em sai lầm..... Nếu có ai quả quyết như vậy xin hãy cho tôi, dù chỉ là 1 bằng chứng thôi để chứng minh rằng những kẻ đang khoác áo Cộng Sản đó là những con người có lý tưởng Cộng Sản, hoặc nói một cách khác là hãy chứng minh cho tôi cái gọi là tính chất Cộng Sản trong con người mà quý vị cho là “những người anh em lầm đường lạc lối”.

Lý do được sinh ra và tồn tại của Việt Gian Cộng Sản (VGCS) chỉ là để phục vụ mộng bành trướng mẫu quốc đỏ Nga Sô, Tàu Cộng. Nói một cách khác, là chúng là một đám người được đưa vào trong băng đảng có tổ chức để phục vụ cho mục đích của “những kẻ không phải là bạn”. Nga Sô, Tàu Cộng là bạn của người Việt chăng? Nếu là bạn tại sao “sự giúp đỡ” cần phải có điều kiện? Tại sao quốc tế 3 phải ra lệnh cho Hồ thành lập Đảng Cộng Sản Đông Dương thay vì Đảng Cộng Sản Việt Nam? Tại sao Nga Sô, Tàu Cộng lại ép VGCS ký vào hiệp định chia đôi đất nước để rồi sau đó tiếp tế vũ khí, lương thực và cổ vũ cho chúng xâm lăng bằng được nửa còn lại? Tại sao lệnh giết người Việt hàng loạt qua cái gọi là đấu tranh giai cấp lại xuất phát từ “các chuyên gia Tàu”? Là người Việt mà lý do tồn tại là để phục vụ lợi ích của ngoại bang mà là lợi ích đó đi ngược lại với lợi ích của dân tộc thì kẻ đó là ai?

Sẽ có người nói rằng đó là chuyện quá khứ, “Việt Cộng” đã thay đổi rồi, bây giờ chúng chơi với Mỹ, với các nước tư bản, hãy cho họ một thời gian để họ thay đổi. Nếu có chăng chỉ là những tên chóp bu tham quyền cố vị đang ngăn cản, đó là bọn “bảo thủ” rất nhiều người thuộc phe “tiến bộ” đang đấu tranh để dành lại quyền dân chủ cho dân tộc. Rất nhiều bài báo, phỏng vấn đã bóc trần cái gọi là “sự thay đổi”. Thực tế VGCS không thay đổi bất cứ 1 điều gì, những cái đã diễn ra trong quá khứ thì giờ đây lại được tái hiện với hình thức khác. Trong những năm 1954 đến 1956, chúng cướp nhà cướp đất, rồi giết người diệt khẩu qua cái gọi là “đấu tranh giai cấp” thì sau năm 1975 chúng cũng làm vậy qua cái gọi là “đánh tư sản mại bản”, cho đến những năm cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21 này chúng vẫn “ăn cướp” như thế qua cái gọi là “công nghiệp hóa, để xây dựng đất nước”. Hàng loạt người bị đẩy ra ngoài đường vì cái gọi là “quy hoạch khu dân cư” hoặc “quy hoạch giao thông”, hàng triệu người nông dân bị mất việc làm qua cái gọi là “quy hoạch khu công nghiệp”. Từ năm 1954 đến năm 1957, chúng đưa ra mồi nhử cái gọi là “trăm hoa đua nở” để triệt tận gốc những mầm mống tư tưởng chống lại chúng, thì trong thời gian sau năm 1975 chúng lại bày trò “kháng chiến phục quốc”. Thời gian gần đây mà nhiều người cho là “đổi mới” hay “cởi mở” chúng cũng mở ra cái phong trào “phê bình và tự phê bình” rồi “phong trào chống tham nhũng” hoặc “phong trào đấu tranh dân chủ gì đó” mà thực chất hễ ai cất tiếng nói chống lại chúng là bị khép tội “phản động, chống lại nhà nước”. Nhiều tấm gương tiêu biểu đã minh chứng cho điều vừa rồi mà nhiều người đã biết và cũng đã được nhiều bài báo thống kê, có lẽ không cần nhắc lại.

Mới đây, chúng mở cửa biên giới cho hàng Tàu ồ ạt tràn vào Việt Nam để bóp chết sức sản xuất của các doanh nghiệp trong nước. Dân Tàu thì được miễn thị thực nhập cảnh, nên ùa vào vô tội vạ. Để thâu tiền hốt bạc, thì chúng “quy hoạch” để đuổi người dân Việt ra khỏi nhà của họ, thay thế vào đó là những khu giải trí ăn chơi, và những khu nhà trung cư cao cấp để bán cho “người nước ngoài”. Những người nông dân thì bị chúng tước công cụ lao động lá đất đai để bần cùng hóa họ khiến cho họ không còn con đường nào khác là trở thành nô lệxuất khẩu lao động”. Đã có những nhiều cô gái bị đánh đập cho đến chết, có người phải nhảy lầu tự tử sau chưa đầy 1 tháng “lấy chồng”, nhiều nam thanh niên bị cưỡng ép làm việc quá sức và bị đánh đập dã man và phải làm việc đến mức đột tử. Chưa hết, chúng vay tiền ODA của Nhật Bản để mở những con đường cao tốc ở phía Bắc để phục vụ cho vận tải Đông – Tây của Tàu, xây dựng hạ tầng cơ sở để mời doanh nghiệp Tàu vào đầu tư với thuế đặc biệt ưu đãi, tiếng là bình đẳng trong kinh doanh, kêu gọi đầu tư, nhưng thực ra là một hình thức bán đất cho chủ Tàu, bởi vì các doanh nghiệp Việt Nam sao có thể gọi là cạnh tranh ngang hàng với doanh nghiệp Tàu được và cho dù có đủ sức cạnh tranh chăng nữa thì đất đai là của người Việt Nam chứ đâu phải là của người Tàu để mà coi đó là “bình đẳng”. Nhưng như thế vẫn là chưa đủ để thỏa mãn lòng tham không đáy của đám VGCS! Tháng 2 mới đây tên Nguyễn Tấn Dũng đã tuyên bố 1 cách trắng trợn cho phép Tàu Cộng vào khai thác Bauxite ở Tây Nguyên, mặc dù vấp phải nhiều sự phản đối quyết liệt của nhiều người dân trong nước chúng vẫn tuyên bố đây là chủ chương lớn của “Đảng và Nhà Nước”. Tài nguyên của đất nước là của toàn dân vậy mà chúng chỉ coi đó là sở hữu của Đảng Việt Gian của chúng và cái Nhà nước Ngụy quyền do chúng tự dựng lên (xin lưu ý là tự dựng lên chứ không người dân nào được lựa chọn cả). Vị trí của Tây Nguyên quan trọng với sự tồn vong của đất nước như thế nào, sự nguy hại của việc Tàu xâm nhập vào mảnh đất này ra sao, đã có nhiều bài báo đề cập rồi tôi nghĩ rằng không cần thiết để nhắc lại.

Như vậy chúng ta đã thấy VGCS đã bộc lộ tính chất gì:

* Đàn áp dân tộc Việt Nam vì quyền lợi của ngoại bang và vì quyền lợi của cá nhân chúng
* Tiêu diệt mọi sự kháng cự của những người dân Việt Nam
* Tiếp tay với ngoại bang để hủy hoại đời sống của dân tộc Việt, biến họ thành nô lệ.
* Chà đạp văn hóa để làm cho họ tê liệt ý thức đấu tranh
* Củng cố quyền lực bằng vũ lực

Những tính chất trên của VGCS đã tự trả lời cho chúng ta thấy VGCS là ai? Và chúng ta cần phải có thái độ như thế nào với chúng. Chúng chưa bao giờ là “anh em” với người dân Việt Nam để mà nhiều kẻ đui mù hoặc mắt sáng mà óc bã đậu nói rằng đó là “huynh đệ tương tàn”. Đối với bọn VGCS chỉ có 1 cách xử sự duy nhất. Đó là nuôi dưỡng lòng căm thù như mài sắc vũ khí, tỉnh táo để không bị rơi vào các “thời cơ dỏm” do đám cò mồi xách động chờ đến ngày phanh thây uống máu chúng, đánh đuổi lũ Việt Gian ra khỏi Việt Nam như các tiền nhân nước Việt đã từng làm. Trong lịch sử chưa bao giờ có đất dung thân cho bè lũ Việt Gian và đến nay cũng không ngoại lệ, “ở hiền thì gặp lành, ác giả thì ác báo” đó là quy luật tự nhiên mà không kẻ nào có thể thay đổi được.

Trọng Tín

Thứ Năm, 29 tháng 1, 2009

DANG TA CUOP SACH VET SACH, CO AI DAM CHONG KHONG ?

Những điều luật trong hiến pháp công nhận quyền làm chủ của người dân trên đất nước cũng như trên đất đai, và các quyền tự do của người dân chỉ là luật trên giấy không mấy khi được thi hành trong thực tế. Vì trong thực tế, tất cả những quyền của người dân mà hiến pháp công nhận thì đảng CS đều cướp đi một cách trắng trợn: từ quyền làm chủ đất nước, làm chủ đất đai đến các quyền làm người, các quyền tự do… Do đó, nếu so sánh với những đảng cướp khác thì đảng CSVN quả là một đảng cướp gian ác nhất, có hệ thống nhất, quy mô nhất, và toàn diện nhất. Các đảng cướp khác chỉ cướp chủ yếu là của cải và chỉ là của cải thôi. Còn đảng CS thì cướp hầu hết những gì mà người dân có, kể cả tinh thần lẫn vật chất... Xin kể ra đây một vài cách ăn cướp điển hình của họ:

− Cướp đất đai tài sản của dân qua các chính sách cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ, cải tạo công thương nghiệp, đánh tư sản mại bản, hợp tác xã…

− Rút ruột hay giá trị của đồng tiền mà người dân đang cầm trong tay hay đang cất giữ trong nhà băng qua những cuộc đổi tiền hoặc hủy tiền sau 1975.

− Rút ruột hay phẩm chất các công trình công cộng bằng cách rút bớt tiền chi phí cần phải có cho những công trình ấy.

− Phỗng tay trên những tiền hay vật phẩm viện trợ hoặc cứu trợ thiên tai của ngoại quốc hay của những người từ tâm,

− Phỗng tay trên phần nào tiền công của các công nhân làm việc cho các công ty nước ngoài trước khi tiền được trao vào tay họ, đặc biệt trong những vụ buôn người dưới danh nghĩa xuất khẩu lao động.

− Gián tiếp cướp trinh tiết, danh dự, tiền bạc và hạnh phúc của những cô gái, những em nhỏ bị bán sang các nước khác để làm nô lệ tình dục…

− Cướp tiền đóng thuế của người dân bằng cách thay vì dùng tiền thuế đó để phục vụ người dân thì lại dùng để trả tiền cho bộ máy công an hết sức đồ sộ để chủ yếu bảo vệ cho ngai vàng của đảng hơn là để bảo vệ an ninh cho người dân.

− Một cách ăn cướp hết sức đặc biệt mà chỉ có đảng CSVN mới nghĩ ra: Không chỉ ăn cướp của các thế hệ đồng thời, CSVN còn ăn cướp của các thế hệ tương lai bằng cách vay tiền của các nước tự do với danh nghĩa lợi ích quốc gia để lấy tiền đút túi, còn việc trả nợ thì để cho các thế hệ Việt Nam trong tương lai è cổ ra mà trả.

− Còn vô số cách ăn cướp khác như tham nhũng, hối lộ, quy hoạch đất đai, cướp nhà đuổi người, v.v... vì giới hạn của bài viết, không thể kể hết ra đây.

Tóm lại, dưới chế độ CSVN, có thể ví các quyền của người dân − như quyền sở hữu đất đai, quyền làm chủ đất nước, các quyền tự do, các nhân quyền − trong hiến pháp thì lớn như cái đầu voi, nhưng trong thực tế chỉ nhỏ như cái đuôi chuột. Nói khác đi đảng CSVN chỉ là một đảng gian trá từ trong hiến pháp, luật pháp đến những lời nói và hành động thực tế, vì thực chất đó chỉ là một đảng cướp đúng nghĩa, chỉ khác với các đảng cướp khác ở chỗ đã cướp được chính quyền mà thôi.
Cộng Sản Việt Nam, một đảng cướp!
Nguyễn Chính Kết

VIET CONG : TU CUOP RUONG, CUOP TRAU NAY DI CUOP DAT

CSVN đã lộ nguyên hình là một đảng cướp chính danh

Qua việc nhà nước CSVN cướp đất đai, tài sản của các tôn giáo, của người dân, kể cả những người dân nghèo khổ, trong khi các cán bộ CS đã giầu “nứt khố đổ vách”, đảng CSVN đã lộ nguyên hình là một đảng cướp chính danh. Những hành động ăn cướp đất đai, nhà cửa nổi tiếng nhất và gần đây nhất là việc cướp đất đai, nhà cửa của Tòa Khâm Sứ, giáo xứ Thái Hà tại Hà Nội, của nhà dòng Bác Ái Vinh Sơn tại Sàigòn, của Tu Viện Dòng Thánh Phaolô tại Vĩnh Long, và của Làng Mai Bát Nhã ở Lâm Đồng.

Sau khi cướp được chính quyền, CSVN buộc các đoàn thể tôn giáo phải cho họ mượn các cơ sở của mình để biến thành cơ sở giáo dục, y tế hay những cơ sở khác của nhà nước. Trên giấy tờ chính thức thì những cơ sở tôn giáo chỉ cho nhà nước mượn để sử dụng với mục đích giáo dục hay y tế. Điều đó có nghĩa là chủ quyền của những cơ sở ấy vẫn là của các đoàn thể tôn giáo, nhà nước chỉ có quyền tạm thời sử dụng cho mục đích đã được ký kết trong các văn bản. Ký kết thế nào thì phải thực hiện như thế, và đã gọi là mượn thì phải trả, chứ không có quyền dùng vào mục đích khác hoặc bán hay giao cho người khác sử dụng. Đó là luật công bằng.

Buộc các tôn giáo cho mượn các cơ sở, họ dựa trên một điều khoản của hiến pháp do chính họ lập ra rồi ép buộc toàn dân chấp nhận: “Đất đai là sở hữu của toàn dân do nhà nước quản lý”. Chỉ cần áp dụng nghiêm chỉnh cái điều luật ăn cướp này thì họ đã lợi lộc không biết bao nhiêu mà kể. Nhưng lợi như thế vẫn chưa vừa lòng tham của họ. Ngay chính luật lệ họ lập ra này, họ cũng sẵn sàng vi phạm cách trắng trợn. Trường hợp cướp đất đai của Tòa Khâm Sứ, giáo xứ Thái Hà, dòng Bác Ái Vinh Sơn tại Sàigòn, và Tu Viện Dòng Thánh Phaolô tại Vĩnh Long, những tập thể bị cướp đất có đầy đủ giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất đai mà trên nguyên tắc và theo luật thì chính chế độ ăn cướp này cũng phải công nhận. Nhưng bất chấp sự rõ ràng ấy, CS vẫn dùng bạo lực cướp đất rồi cấp cho người này, công ty kia để họ đầu tư. Trường hợp Tòa Khâm Sứ và giáo xứ Thái Hà, trước sự phản đối quyết liệt của Tòa Giám mục Hà Nội và giáo dân Thái Hà, đảng CS thấy không thể nuốt trôi hai miếng đất ấy, họ bèn biến của tư thành của công, biến đất của Giáo Hội thành công viên theo tinh thần “ăn không được phá cho hôi”.

Qua những sự việc trên, và nhiều sự kiện khác, ta thấy: bất chấp hàng trăm ngàn trường hợp kêu oan, kiện cáo, biểu tình của dân chúng trước tình trạng bị cướp đất, cướp tài sản cách bất công, đảng CSVN không hề tỏ ra một dấu hiệu cải thiện hay nhận ra sự sai trái của mình. Họ vẫn tiếp tục thẳng tay đàn áp bằng bạo lực, bằng tòa án, và nhất định ăn cướp cho bằng được.

Luật đất đai do họ tạo ra − quy định rằng đất đai là “sở hữu của toàn dân”, “do nhân dân làm chủ” nhưng lại “do nhà nước quản lý”. Trên thực tế, người dân chỉ là chủ hờ, tức chỉ sở hữu trên danh nghĩa chứ không hề làm chủ thật sự. Còn nhà nước, công cụ của đảng CS, trên danh nghĩa là quản lý, nhưng trên thực tế lại dành quyền của chủ, dám toàn quyền quyết định về đất đai trên toàn quốc: họ muốn lấy đất đai của ai, cấp phát cho ai tùy ý. Ra luật đất đai này trong hiến pháp, họ trắng trợn truất quyền sở hữu của tất cả mọi công dân trên toàn bộ đất đai mà các công dân đã có quyền sở hữu hợp pháp trước đó. Đây là một hành vi ăn cướp bằng hiến pháp.

Thật vậy, nếu đất đai do nhân dân làm chủ, tại sao khi nhượng đất nhượng biển cho Trung Quốc, nhà nước hay đảng CS lại không hỏi ý kiến nhân dân? Tại sao việc nhượng đất tai hại ấy chỉ là để bảo vệ cho sự tiếp tục cai trị của đảng CS chứ không hề ích lợi gì cho người dân mà còn thiệt hại vô vàn cho đất nước? Khi nhân dân, là chủ đất, tỏ ra không chấp nhận việc nhượng đất nhượng biển đó bằng những cuộc biểu tình ôn hòa, tại sao CS lại đàn áp và bắt tù người dân biểu tình? Nếu đất đai là sở hữu của người dân, tại sao đảng và nhà nước có quyền tước đoạt đất đai của họ khi họ có đầy đủ giấy tờ chứng minh chủ quyền hợp pháp của họ?

Nếu nhân dân thật sự là chủ sở hữu đất đai còn nhà nước thật sự chỉ là người quản lý, thì khi muốn nhượng đất cho ai, lấy đất của ai để dùng vào việc gì, người quản lý (tức nhà nước) phải hỏi ý kiến người chủ (tức người dân). Trên nguyên tắc, chỉ người chủ mới có quyền quyết định, người quản lý chỉ làm theo lệnh hay ý muốn của chủ mà thôi. Đằng này, nhà nước (người quản lý) muốn chiếm đất của dân hay lấy đất đai của dân để ban phát cho ai tùy ý, bất chấp ý muốn của dân (người chủ), như vậy là họ vượt quyền quản lý và tiếm quyền làm chủ rồi. Họ đã trắng trợn vi phạm chính hiến pháp do họ ban hành. Có thể nói: sau khi ban hành luật đất đai, công nhận quyền làm chủ đất đai của người dân, thì đảng CSVN đã ngay tức khắc cướp quyền làm chủ ấy của người dân. Tương tự, hiến pháp của họ cũng quy định người dân là chủ của đất nước, nhưng trong thực tế, họ cũng cướp luôn quyền làm chủ ấy, và chỉ cho người dân được làm chủ đất nước một cách hình thức, qua những cuộc bầu cử giả tạo.

Thứ Hai, 19 tháng 1, 2009

THANG 4-75 VIET CONG GIET SACH MOT TRAI TU O PHU YEN

Nhớ Tháng 4 Đi Tìm Xác Chú
Trần Đòan Hưng


Tìm về vụ thảm sát 141 quân cán chính Việt nam Cọng Hòa tại Phú Yên tháng 4.1975)

1. Chiến tranh và ý thức hệ cọng sản biến đổi tính người :

Trên tấm bản đồ của Đất Nước Việt Nam, quả thật vùng đất Phú Yên gần như lặng lẽ “vắng mặt” trong “hộc tủ kiến thức địa lý” của nhiều người. Bởi chưng Phú Yên khép nép đứng giữa hai thành phố với hai biên giới dữ dằn : phía Bắc có đèo Cù Mông che khuất Qui Nhơn đĩnh đạc truyền thống và phía Nam với Đèo Cả ngăn lại Nha Trang đầy hoa lệ kiêu sa. Và cùng với tính chất địa lý “cách biệt” nầy, hình như trời lại phú cho dân tình Phú Yên một tâm địa hiền lành dễ mến, chất phát chân quê và phẵng lặng hiền hòa như những cánh đồng lúa nước bạt ngàn hay như những dòng sông Cái, Đà Rằng êm trôi về biển.




Phải chăng chính cái hiền hòa, chân chất đó, người Phú Yên luôn là “kẻ đến sau” của tranh đấu, đôi co, của lo toan vất vả để âm thầm đón nhận cho dầu kết quả là mật ngọt hay trái đắng, như câu tục ngữ ví von : “Quảng nam hay cãi, Quãng Ngãi hay co, Bình Định nhiều lo, Phú Yên ních hết”.

Nhưng “nói thế mà không phải thế”. Bởi chưng, lịch sử có những bước thăng trầm mà đôi khi đã làm thay đổi biến dạng mọi thứ như Cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm đã từng tâm sự : “Thế gian biến cải vũng nên đồi”[1]. Ở đây, muốn nói đến cái đổi thay biến dạng của tâm hồn, tính khí nơi một số người Phú Yên. Thật vậy, sau hai cuộc chiến “thần thánh” chống thực dân Pháp (1945-19564) và huynh đệ tương tàn ý thức hệ (1955-1975), hình như một bộ phận người Phú Yên đã thật sự thay đổi và biến dạng. Não trạng chiến đấu với kẻ thù xâm lược và giai cấp, tâm thức loại trừ tàn bạo và không khoan nhượng đối với “thế lực đối kháng”, lại thêm được trang bị một ý thức hệ bạo tàn sắc máu Mác-Lê-Mao-Hồ, sẵn sàng “đào tận gốc, bốc tận rễ”[2], những người Phú Yên mang căn cước cọng sản đã thật sự “biến chất, cái chất hiền hậu dễ thương nhường chỗ cho hận thù khát máu, cái chất chân quê chất phát, phải đội nón ra đi để nhường sân khấu lại cho lọc lừa, dối gian và tàn độc. Điều nầy đã được khẳng định cách rõ nét trong “vụ thảm sát 141 cảnh sát và quân cán chính của chế độ Việt Nam Cọng Hòa tại Phú Yên vào tháng 4 năm 1975, sau khi Phú Yên bị mất về tay cọng sản, và trong khi những người bị thảm sát nầy đã ra trình diện để được cải tạo”, một hồ sơ tội ác diệt chủng mà chính quyền cọng sản cố tình ém nhẹm suốt 31 năm qua.

2. Khái quát hồ sơ vụ án thảm sát tháng 4.75 tại Phú Yên :

Vì không là “chứng nhân trực tiếp “ của vụ thảm sát trên mà chỉ là một người thân có người chú ruột là nạn nhân, và “kỷ niệm đau buồn” đã trôi qua 31 năm, cho nên nội dung hồ sơ lịch sử thảm sát trên chắc chắn chưa đầy đủ. Hy vọng nhiều người có liên hệ với những nạn nhân trong cuộc thảm sát trên sẽ bổ túc.

Thời gian đó là vào khoảng đầu tháng tư Dương lịch năm 1975, năm định mệnh của bao nhiêu người Phú Yên và của cả dân tộc Việt nam, khi những cánh đồng lúa vừa chuyển sang màu vàng để nông dân chuẩn bị bước vào “mùa gặt tháng 3”. Đó cũng chính là thời điểm vừa kết thúc những trận đánh khốc liệt trên “đại lộ kinh hoàng tỉnh lộ 7”, con đường nối Phú Yên và Tây Nguyên được chọn làm cuộc “rút lui chiến thuật” của toàn bộ Quân Khu 2, một cuộc tính toán chiến lược sai lầm và mạo hiểm của chính quyền Sài Gòn, để phải lãnh cái giá là bao nhiêu xương máu của quân đội và đồng bào chôn vùi trên tuyến đường khốc liệt nầy. Và đó cũng là thời điểm những người Việt Cọng Phú Yên từng bừng hớn hở chính thức bước vào làm chủ mãnh đất mà suốt bao nhiêu năm họ phải sống thấp thỏm trong chui rúc lo âu nơi rừng thiêng nước độc hay nơi các mật khu với từng ngày chịu đựng cái đói, cái bệnh và bom rơi đạn lạc. Và nhất là, đó là thời khắc buồn tênh, tê tái và đen tối tột cùng đỗ ập xuống trên thân phận những người Phú Yên không cọng sản, quân đội hay cảnh sát, công chức hay thường dân, sinh viên học sinh hay các chức sắc đạo đồ các tôn giáo…Với họ tất cả sụp đỗ tan tành và một màn đêm âm u bao phủ khắp tương lai.

Sau khi nghe lệnh “khoan hồng” và kêu gọi trình diện để được cải tạo của chính quyền quân quản cọng sản, các thành phần có tham gia quân đội hay cảnh sát, công chức chính quyền của chế độ Việt Nam Cọng Hòa đã chân thành hưởng ứng trình diện. Ngoài một số đã di tản vào phía Nam, con số quân cán chính ra trình diện với chính quyền Cách mạng Phú Yên có lẽ lên tới mấy ngàn người với niềm hy vọng mỏng manh sẽ được đối xử khoan hồng theo chủ trương hòa hợp hòa giải dân tộc.

Oái ăm làm sao và bi đát làm sao cho một số người, những nạn nhân nối tiếp của các chế độ bạo tàn cọng sản, từ Liên sô tới Trung Cọng, từ Ba Lan tới Hung-ga-ri, từ Cu-Ba tới Bắc Triều Tiên, từ Căm Bốt tới Rou Ma Ni…

Và cũng như bao câu chuyện thủ tiêu, thảm sát của cọng sản dành cho những người “bên kia chiến tuyến”, câu chuyện thảm sát 141 cảnh sát và quân cán chính Việt nam Cọng Hòa tại Phú yên cũng được tiến hành “bài bản, gọn nhẹ và hiệu quả”.

Theo một nhân chứng cải tạo không thuộc diện “bị xử” đã kể lại : Chiều hôm đó vào khoảng 16 giờ, toàn thể các trại viên cải tạo quân cán chính Sài Gòn đang tập trung tại trường tiểu học Đình Thọ thuộc xã Hòa Định, thì có xe của Giám Đốc Sở Công An Phú Yên Lê Văn Liễm[3] trờ tới. Có cán bộ Công An cấp cao tới thăm tất phải có chuyện. Mà đúng như thế. Giám đốc Liễm dõng dạc truyền lệnh : Ai có tên đứng qua một bên xe và ai không có tên ngồi yên tại chỗ. Con số được kêu tên vào chiều hôm ấy là 142 người gồm khoảng trên 80 cảnh sát và trên 60 mươi quân cán chính. Trong số đó có đại úy Kế, chi khu trưởng Tuy An, là sĩ quan có cấp bực cao nhất trong số được kêu tên nầy. Và ông giám đốc bình thản tuyên bố : Vì điều kiện học tập tại địa phương nầy không tốt cho một số quá đông, do vậy 142 người nầy sẽ được về tỉnh học tập với các điều kiện tốt hơn. Sau những chuẩn bị nhanh gọn để lên đường, tất cả 142 người chia tay các bạn để “đi về một phương trời khác” khi chạn vạn vừa buông. Có ngờ đâu, đoàn 142 người dắt díu nhau đi, không phải đi về tỉnh mà đi theo lối phía Bắc, qua ngõ “Lù Ba” và tiến dần tới các bãi thảo nguyên hoang vắng dẫn tới bên chân núi Chà Rang”…Khi trời vừa tối sẩm, những người cải tạo còn ở lại Đình Thọ chợt nghe một tiếng nổ lớn và tiếp sau đó là những loạt đạn đại liên xối xả từ xa vọng về. Lúc đó, các tay quản giáo đã hô lên rằng : đó là tiếng súng đánh nhau của bộ đội ta và tàn quân ngụy. Nghe thì nghe vậy nhưng trong lòng mỗi người đang nung nấu một mối nghi ngờ và lo âu. Rồi không biết chuyện gì sẽ xảy ra khi xe của ông giám đốc Công an Lê Văn Liễm lại đến.

Gần một tuần sau, trong khi lao động, một số anh em cải tạo nghe dân làng Đình Thọ kháo láo : cách đây mấy đêm, có từng đoàn 5 người một, bị trói tay bằng dây dù, dẫn về phía núi Chà Rang và bị bắn chết chồng chất. Các trẻ em chăn bò cũng hoảng sợ kinh hoàng khi chứng kiến hàng đống xác người chết hôi thúi cả một vùng Chà Rang. Riêng người viết bài nầy, đã theo chân người thân đi tìm xác chú tại địa điểm trên. Trước khi đến “bãi xác” được chất hàng đống to đã bốc mùi kinh khiếp, một bãi nào dép, giày, bi đông, dụng cụ…nằm la liệt trên phần đất phía ngoài. Có lẽ, trước khi bị bắn, các cán bộ muốn “thanh tra đồ đạc phạm nhân” trước, để khỏi phải lục lọi trong cái đám xác bầy nhầy máu thịt !...

Có ai ngờ, trong sô 142 “học viên về tỉnh cải tạo” với những loạt đạn đại liên định mệnh tối hôm ấy, lại có một người sống sót. Nghe đâu người nầy sau đó đã cắn dây trói, chạy trốn vào phía Nam và thay tên đổi họ yên ổn làm ăn nơi một vùng đất mới…

Và “mùa gặt lúa tháng ba” năm ấy phảng phất nổi buồn trên khắp các vùng quê Phú Yên, đặc biệt nơi các xã Hòa Thắng, Hòa Quang, Hòa An, Hòa Định. Bởi vì, cùng với màu vàng của những hạt lúa mới được đem về nhà, rất nhiều gia đình có thêm màu trắng của khăn tang để tưởng niệm những người thân đã mất, trong đó có gia đình của Chú tôi.

Hôm nay, nếu có ai về Phú yên trong dịp tháng 3 âm lịch, khi lúa đã vàng đồng và nông dân chuẩn bị cho mùa gặt mới, sẽ gặp được một ngày đặc biệt gọi là “ngày giỗ chung”. Vì trong ngày này, có rất nhiều gia đình cùng tưởng nhớ tới các cảnh sát, quân cán chính Việt nam Cọng Hòa bị thảm sát tập thể vào tháng 4 năm 1975 khi Phú Yên vừa được “giải phóng”.

Không biết trong hồ sơ về tội ác của Cọng Sản mà nghị viện Âu Châu đã lên án bằng nghị quyết 1481 ngày 24/01/2006 có liệt kê vụ thảm sát Mậu Thân (1968) ở Huế và thảm sát Mùa Xuân (1975) ở Phú Yên không ? Nếu không có, thì xin ai đó ở hải ngoại Âu Châu, làm ơn liên hệ để ghi thêm vào “hồ sơ tội ác của cọng sản” cho đủ “con số tròn”.
--------------------------------------------------------------------------------

[1] Câu đầu trong bài thơ “Nhân tình thế thái” của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong Bạch Vân quốc ngữ thi

[2] Nguyên câu khẩu hiệu : “Trí, phú, địa hào, đào tận gốc, bốc tận rễ”

[3] Lê văn Liễm sau nầy thăng cấp đại tá làm giám đốc sở công an tỉnh Phú Yên cho tới khoảng năm 1997. Sau một vụ bê bối tham nhũng hàng chục tỷ đồng đã “hạ cánh an toàn” trong nhiệm vụ mới tại Cục Hậu Cần của Bộ Công An.
__________________
Ngươi buồn, người nản , người thảm, người thương .
Xin mời vào chốn
[url]http://www.saigonsingle.com/[/url]

Thứ Hai, 12 tháng 1, 2009

CAC DE TAI THU DOAN VA TOI AC VIET CONG DANG DUOC BIEN SOAN

CAC DE TAI DANG DUOC BIEN SOAN


VIET CONG NAM VUNG LAM BAO CHI O HAI NGOAI
Viet Cong nam vung o hai ngoai, gia vo tham gia vao cac hoi doan,.. dan dan len loi vao nganh bao chi…sau do gia vo dau da chuoi rua nhau bang nhung bai bao do CSVN chi dao va xui duc. De duoc long tin cua nguoi Viet tu do, chung tim moi cach de tro thanh mot thanh vien cua mot hoi doan nao do roi chung co suc chui sau treo cao, chuoi boi VC thoai mai, mot so khac dung ten mot to bao de dao dau cho bon nay…Khi da lay duoc mot it long tin trong cong dong nguoi Viet tu do, chung bat dau gia vo tao mau thuan voi nhau, hoac co tinh tao ra nhung bang co sai trai gi do rat bi mat va de roi tu chung boi nho nhau tren bao chi mot cach am i…ma ai cung lam tuong PHE TA DANH PHE TA
Day la thu doan cua bo cong an VC len lut dau bon nam vung di ti nan, an o nhu giun san trong ruot, phan..nguoi khac nham pha thoi, boi tro trat trau, nem cut,… theo linh cua Dang va Bac. Chung su dung voi bat cu thu doan gi neu lam duoc de gay chia re va lam nan long nhung nha dau tranh dan chu cho que huong Viet nam dang o nuoc ngoai hien nay. Ai cung ngac nhien la phe ta sao ma hom nay cung dau tranh ( vit) hom mai lai to cao nhau, boi nho nhau, ngay kia lai dau tranh, ngay no lai vu cao..Di nhien cung co mot so nguoi bat man, chan qua. Thoi ta o nha la xong. Nhung bay gio ai cung biet thu doan boi nho cua PHE TA NAM VUNG nen cang cam thu giac Cong Phi nhieu hon, CANG HANG SAY HON DE DAU TRANH CHO NGUOI VIET DANG BI VC DAN AP TAI QUE NHA

DUA SACH VO TIENG VIET CUA VC VAO TRUONG LOP HAI NGOAI: Cac loai sach hoc tieng Viet duoc mua tu Viet nam, dau diem len lut nhap vao cac truong viet ngu o hai ngoai( co tay trong tay ngoaica day) Hau het sach vo nay deu ca ngoi Ten cho chet Ho chi Minh, ke cong lao giet nguoi thanh nguoi yeu nuoc


HOP TO DAN PHO HANG THANG DE HU DOA: Chu truong cua CONG DANG la bien hoa ba con xom gieng thanh ke thu dang nguyen rua, la de ba con chia re, to giac, boi moc chuyen rieng tu, chi trich loi song, phe binh dao duc va chua quan triet duong loi

VO SAN THE GIOI DOAN KET LAI: co nghia la chung tu xung danh la: CHUNG TAO LA VO SAN DAY, CHI CO CAI MANG CUI, DUA NAO DAM CHONG LAI CHUNG TAO?
Coi chung Chung tao se vo san het chung may day..Co tai san thi dang hien mau mau
( Chung thu gom loai du thu du thuc, dau duong xo cho, dau trom duoi cuop, ban co nong an cap .. va roi lap thanh mot doi quan VO SAN nham ham doa nguoi luong thien co cua cai…)


VC LUA GAT HOC TRO, BIP HOC TRO THANH TAY SAI DI CUOP CUA TU SAN
CS tao dung hang ngan chung co gia tao ve the gioi tu ban, toan la toi ac, boc lot, ngheo kho, cong nhan bi danh dap, nha san xuat buon ban la gian thuong , dau co, ban cat co, ca lon nuot ca be…tat la la dia nguc tran gian, di nhien CS khong cho phep bat cu ai nhin thay, nghe, biet su that ben ngoai. Khi cac em bi nhoi so thanh ra ngo ngan, chi biet han thu chem giet

VC DAOTAO TAY SAI TRUNG THANH VC su dung ten tuoi nguoi nuoc ngoai, dat len la hoc gia, nha nghien cuu lich su toan la bip ca …de nang bi ten gian tac Ho CM trong sach vo, tai lieu, trong cac truong hoc

THE GIOI CONG SAN VA THE GIOI LOAI VAT
VC luon khoac lac la ta dang xay dung THE GIOI DAI DONG, LAM VIEC TUY THEO SUC LUC NHUNG DUOC HUONG THEO NHU CAU,,, keo dai hang tram nam ma chua di toi, chi thay dan di trom cuop, lam di, ban dam, di nhien nhung ten cam dau bang dang Cong deu huong cuoc cong tren thien dang XHCN roi.

BAU CU KIEU VIET CONG
Nuoc Viet Cong khong bao gio co tranh cu vi: Dat nuoc nay ta cuop cua ke khac, thi tai sao phai bau cu, chi co ta bau cho ta thoi.

CHAM NGON CUA DANG CONG SAN
Cau khau hieu hang dau cua VC : Tha minh phu nguoi truoc cho de nguoi phu ta, giet lam hon bo sot, song chet mac bay, mac ke no, moi viec lam deu phai co tien vi day chang phai la tai san cua ai ca, cap nho phai dong tien cho cap lon hon, tao khong giet may thi no giet tao

CUONG BUC LAO DONG HUAN NHUC DE XOA BO NHAN CACH, REN LUYEN SU VANG DA CUI DAU, LAM QUEN DAN VOI SU NHUC NHA, CHAP NHAN HEN HA, NOI LAO, TO CAO
VC quan ly doi song: CS dung bien phap cuong bach lao dong hang nam doi voi moi nguoi nham triet tieu su doi khang, chap nhan menh lenh sai khien, lam viec ngoai troi mua gio bang tay chan de chap nhan su hen nhat,nhuc nha, xoa bo tu ai, danh du va nhan pham, moi nguoi chi co biet cui dau, so hai, huan nhuc ban nang tuan lenh tuyet doi du kho cuc than xac den dau

BAN CUNG HOA
Quan ly luong thuc : DOI THI NOI PHAI NGHE: VC nam nguon luong thuc, thuc pham, nhu yeu pham, thuoc men, chat dot, ap dung duong loi phan phoi theo tieu chuan it oi khong du cho mot nguoi song, va neu khong la viec cho Dang cong thi bi cat han

NGU DAN HOA-SUC VAT HOA
Nhoi so va ngu dan : Buoc hoc nhung tai lieu sai trai, phai phat bieu nhu trong sach vo cua VC, cam nghe Dai nuoc ngoai, sach vo nuoc ngoai dem ve deu bi tich thu,..

SIET CHAT CAC QUYEN TU DO: Di lai, tam vang, tam tru phai xin phep, cho va khong cho di chuyen cho o, khong cap quyen cu ngu hop phap, khong duoc lap Hoi doan, khong duoc noi ngoai y cua Dang vc, chung sach nhieu khi xin viec, khi tham gia cong viec cua ton giao.. Gan day nguoi dan khong duoc to cao THAM NHUNG, KHONG DUOC CHONG NGOAI XAM( tau dang chiem Dao va bien gioi phia bac,..)

HU DOA SUOT CUOC DOI
Phai di hop thuong xuyen: Nghe menh lenh hu doa, phai ca ngoi duong loi CS truoc tap the, phai chi trich nguoi trong nhom, trong to, trong co quan khi biet duoc nhung bi mat rieng tu…

TAP THE CAI TRI LAN NHAU
Cai tri bang tap the : Theo doi va kiem soat nhau, thich to cao lap cong, phai tu thu, kiem diem, neu that nhieu diem yeu kem truoc Dang, xin hua tuan lenh tuyet doi nhu la toi pham

SACH NHIEU LIEN TUC VA TANG DAN
Bien phap sach nhieu den tru dap, ham doa tran ap, su dung sach luoc phong toa kinh te, cat luong thuc, khong cho lam an, bat bo tu day, dung du dang danh dap ngoai duong pho,

LUA GAT THANH THIEU NIEN THANH TAY SAI
Du do thanh thieu nien vao Doi vien, Doan bang nhung phong trao, hoi thi, cam trai, thao dien..vui choi giai tri. Khi da lo vao to chuc CS roi thi chung siet chat dan khong co con duong thoat ra ma phai lam tay sai sat mau hung du, du biet co the phai hy sinh mang song

DUNG NGUOI GIA CA DE DOA NGUOI TRE
Nguoi lon tuoi phai vao Hoi lao thanh, me chi, Mat tron to cuoc, doi tu ve, dan quan Phuong, du kich xa, doi phong chay…DE TRAN AP NGUOI TRONG THON XOM, va la de ham doa nhau, ran de NGUOI TRE TUOI HON, nguoi gia ca cung biet theo doi nhau nua,…




KINH TE XHCN

DANG VIET CONG CUOP TRAU

Bat cu cai gi dung de san xuat thi goi la cong cu san xuat. Cai gi thuoc ve cong cu san xuat thi phai sung cong, trung thu. Vd con trau di cay la cong cu san xuat, vay con trau se bi tich thu. Tu do, o Viet nam, ai cung noi Dang Viet cong la dang cuop trau

VIET CONG CUOP SACH TAI SAN NGUOI DAN
Cong ty quoc doanh, hang xuong, don vi kinh te quoc doanh, cua hang mau dich quoc doanh.. tat ca truoc do la cua tu nhan nhung che do CS da su dung bao luc de doat lay. Nhung nguoi lanh dao cac don vi nay deu da Dang Cong phan bo hoac chay tien de kiem cho lam ngon an. Nhu vay ai ai cung hieu tai san nay chang phai cua rieng ai, chang lam loi cho dat nuoc ma lam cho ten cam dau ma thoi. Ten lanh dao phai kiem tien that nhieu bang moi cach, vua de dong le phi cho cap tren vua an chia voi dong bon trong co quan do. Kinh te xhcn la the do.

CHI CO VC DUOC PHEP LAM KINH TE
Dang Cong da danh het cac quyen lam an kinh te, doc quyen dich vu, mua ban sua chua, vay nguoi dan duoc phep lam gi de sinh song.

PHUONG PHAP CHE DAU TOI AC
Tao dung ke thu trong nuoc: De cac em nho cam thu mot giai cap nao do thi bon Cong dat ten nha giau do voi nhung danh tu ac doc, chang han nhu la :LAO TROC PHU, TEN PHU NONG DAM DUC, BON CHO VAY NANG LAI, QUAN THAM CHUYEN CUOP VO NGUOI KHAC, VU OAN GIA HOA DE HAI NGUOI…Khi cac em bi lua bip va tro nen cam ghet, bon Cong lien sai cac em di DANH TU SAN, DI TICH THU CHO DANG CS…

Ten PV Dong nhan mot chiec tau cho day thuoc Tay vien tro, khi Tau nay vua den VN, y da dem ban sach va bo tui chu khong boc len bo.
Y cung da an cap mot kho hang 3 ty dola, hang danh tu san tai mien nam, y da gia vo noi la kho hang bi chay.
Y va 2 ten khac chia nhau 15 tan vang cuop cua mien nam sau 1975

CHIEN TRANH VIET NAM: CHIA THANH 2 PHE GAY CHIEN
NGA TAU LUA GAT VIET CONG DE BAN VU KHI

Nuoc Viet bi chia doi la co ly do sau xa
Cac nuoc manh sau de nhi the chien con du thua hang ngan TY dola vu khi, chung muon Viet nam tieu thu de lay tien bo tui
Nga Tau Anh Phap da du do HCM chap nhan chia doi VN voi loi hua se co bau cu thong nhat ( bip)

Truoc khi ki hiep dinh Geneva, bon Cong da gai nguoi o lai mien Nam nham gay chien tranh ( Bon Le Duan o lai)

XUI DUC VC BAN GIET CANG NHIEU CANG TOT
Nga Tau huan luyen VC cac thu doan am sat, thu tieu can bo xa ap tai mien nam VN ( moi tuan khoang 100 nguoi bi am sat) chung con cung cap hoa tien, sung phong tu dong..khong nguoi dieu khien cho bon VC nam vung ban va nha dan. Day la giai doan GAY THU OAN NAM BAC VN


TAI SAO MOI GIA DINH VN CAN CO MOT LIET SI ?
Mao trach Dong day Ho c Minh phuong phap cai tri : Moi gia dinh mien Bac VN deu thu han nguoi dan mien Nam VN bang sach luoc: MOI GIA DINH PHE TA PHAI CO MOT LIET SI.

Tai sao? Toi chua hieu. Mao noi voi ho c Minh: DM. tieu coi lu mu cha may ngu, Noi nhu vay ma khong hieu. Vi neu mot dua con di vao Nam bi ban chet, hoac bi bat tra tan, giam tu…thi ca dong ho LIET SI o ngoai Bac VN se han thu ngan doi ma khong biet tai sao, nhung gia dinh ngu xuan nay se trung thanh voi may, tuan lenh may , muon di tra thu lap tuc…HCM nghe noi va hieu ra lien cuoi sung suong va thot len ; Haay hay…dieu ke, dieu ke..

HCM thua: Vay thi lam the nao, thua chu tich Mao? Mao Noi : May cu viec lua het bon con trai ngo ngan vao Nam, cho chung no an ngu duoi ham, duoi mat dat, the la chung khong con duong tro ve que. Ban dem, ra lenh cho chung no di am sat, cuop luong thuc, dem tai lieu, sung , min, dao gam, luu dan..di chon dau…lau ngay cung co lan so ho, hoac la phai hy sinh, hoac la bi bat..va…

Ho C Minh bat dau hieu, y hoan ho,dung day, dung day bac Mao a!! Mot thang bo doi chet trong Nam thi toi co hang tram nguoi o mien Bac them cam thu dan trong Nam.

Cuoi cung Mao T Dong bao Ho c Minh ki giay muon sung dan, vu khi va hua hen tra no gom tai nguyen, dat dai, hai dao. Viet nam 25 nam chien tranh ma tra no 30 nam chua xong, do la do toi ac Ho chi Minh, mot con cho san cua Tau.




 Nhung bai ca thu han, dau tranh tu toi, cam hon

 Phan tich bai Quoc te Ca cua CS: xui duc cuop, giet

 Truong hoc cong san day tu tuong thu han cho hoc sinh

 Ai giet ai trong cuoc chien nam bac Viet nam: VC giet VN, lang xom giet nhau, ba con giet nhau

 Chien tranh lanh: Ai thang ai va ai bip ai: Tu ban bip CS, va Tu Ban thang CS, CS thanh an may

 Nga Tau giup VC tuyen truyen long cam thu giua 2 mien Nam Bac

 Ai cung muon an cap khi lam viec duoi che do CS

 Lam lanh dao phai biet dut lot cap tren va thu tien cua dan em

 Phai an chia ngan sanh, khau tru phan tram trong dau tu de giao lai cap tren

 Sach nhieu, cua quyen, ham doa la mot trong nhung chu truong cai tri sat mau cua bon Cong

 VC khong nhan trach nhiem ve dao duc con nguoi suy thoai duoi che do CS

 Tai sao cac nhan vien quan li khach san cua SC deu dua gai mai dam vao khach san

 Cach giet nguoi trong dau to cua HCM:
 Nhet cut vao mieng nan nhan truoc khi giet, ban xong de xac giua dong trong, khong duoc dem chon ( 300 ngan dan bac bi ban chet)

 VC nhan vu khi cua ca khoi Cong San va tuyen bo gay chien voi khoi Tu Ban tai dat nuoc VN ( hoac la ngu va bi lua, hoac la HCM va Mao trach Dong toa rap nhau de giet nguoi VN ngo hau tra moi han thu 1000 nam truoc, vi TAU khong the do ho VN mai mai duoc)

 VC tuyen chien voi tu ban the gioi nhung lai ban giet dan Viet nam tai mien nam VN.( HCM la nguoi goc Tau, tra hinh la nguoi Viet, no muon tan diet nguoi Viet)

 VC gay voi tu ban, lam duong mon HCM de chuyen dan duoc, VC buoc dan khieng vac dan bang doi vai de danh voi tu ban.Tu ban dem chim ia cut lua den tha tren dau, nhu the VC phai an cut ma chet.