Thứ Hai, 14 tháng 9, 2009

TIM HIEU DAO DUC GIA CUA HO CHI MINH

đạo đức Hồ Chí Minh là gian trá, tráo trở, lường gạt, tàn bạo, độc ác, nham hiểm, giết người dã man, cướp của, hối lộ, bóc lột …
“Tháng 3 năm 2003, Trung ương ảng đã phát động một đợt ‘học tập ư ưởng Hồ Chí Minh gian trá’. Ba năm sau, Bộ Chính trị quyết định mở rộng đợt học tập này. Theo một chỉ thị do Tổng Bí thư Đảng CSVN ký thì sau khi học tập ‘ư ưởng Hồ C Minh’, toàn Đảng, toàn dân còn cần học tập và làm theo ‘ấm ương đạo đức Hồ Chí Minh gian trá’ từ năm 2007 cho tới hết nhiệm kỳ Đại hội X của Đảng CSVN, mãi tới đầu năm 2011 mới kết thúc” (*1). Một trong những kết quả đợt học tập ấy là: “Tại tỉnh Vĩnh Long, qua gần ba năm thực hiện ‘Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương ạo ức Hồ Chí Minh gian trá’, cán bộ, đảng viên của tỉnh đã có những chuyển biến tích cực trong đạo đức, lối sống. Đến nay, cuộc vận động đã lan sâu vào lĩnh vực tôn giáo. Nhiều gương tiêu biểu ở các chùa cho thấy rằng, những vị sư sãi đã bắt đầu học tập, làm theo gương ác từ những việc làm hết sức thiết thực và cụ thể” (*1).

Hiện nay, uy tín của đảng CSVN trước quốc dân Việt Nam đang bị xuống dốc trầm trọng, người dân ngày càng thấy rõ thực chất của đảng CSVN là một đảng cướp đúng nghĩa nhất, độc ác và nham hiểm nhất, nhưng lại quy mô nhất… Và người dân ngày càng cảm thấy không thể để cho cái đảng cướp này cứ nắm quyền cai trị để bóc lột đồng bào đến tận xương tuỷ mãi. Trong lòng người dân đang cháy lên ngọn lửa bất mãn và ngày càng cháy bùng lên. Trước nguy cơ toàn dân nổi dậy hầu quét sạch bọn cướp ngày gian ác này, đảng CSVN hết sức lo sợ nên đã tìm cách đối phó. Một trong những cách đối phó của họ là đưa ra và đề cao “ư ưởng Hồ Chí Minh” gian trá, trong đó có “ạo ức Hồ Chí Minh” gian trá, hầu hâm nóng lại sự trung thành đối với đảng vốn đang nguội lạnh dần nơi các cán bộ cộng sản.

Trước cách đối phó ấy, thiết tưởng người dân Việt trong và ngoài nước cần phải hiểu thật rõ “đạo đức Hồ Chí Minh” là gì? Bản chất của thứ gọi là “đạo đức” đó là gì?

Đạo đức của một dân tộc, một xã hội hay một nền văn hóa luôn luôn phải đặt trên một nền tảng hay một tiêu chuẩn nào đó để dựa vào đó, người ta có thể xác định một quan niệm, tư tưởng, lời nói hay hành động nào đó là có đạo đức hay không. Đối với Lão Tử, tác giả cuốn “Đạo Đức Kinh”, và những người theo ông thì “Đức” là cái gì phù hợp với “Đạo”, là sự thể hiện của “Đạo” trong tư tưởng, lời nói và việc làm của con người. Người có “Đức” là người quan niệm, suy nghĩ, nói năng, hành động và sống phù hợp với “Đạo” của Trời Đất, của Con Người. Từ ngữ “đạo đức” và ý nghĩa của nó có lẽ xuất phát từ quan niệm này của Lão Tử. Đối với Đức Phật hay Phật giáo, đạo đức là phẩm chất của những tư tưởng, hành động phù hợp với sự giác ngộ về “Bản Lai Diện Mục”, “Chân Tâm” hay “Chân Như Phật Tính”. Nói cụ thể hơn ‒ đương nhiên cũng sẽ hạn hẹp hơn ‒ cho những người thích cụ thể, thì đạo đức là những gì phù hợp với giáo huấn của Đức Phật. Đối với Thiên Chúa giáo thì Thiên Chúa là trên hết. Tất cả những gì phù hợp với vị trí tối thượng của Thiên Chúa, với thánh ý và giáo huấn của Ngài ‒ được cụ thể hoá bằng tình yêu đối với Thiên Chúa và đồng loại ‒ thì gọi là đạo đức.

Vậy, đối với người Cộng sản, đạo đức là gì? Thưa: Đạo đức là những gì phù hợp với việc đặt quyền lợi của đảng cộng sản lên trên hết. Do đó tất cả những gì có lợi cho sự nắm quyền cai trị vô thời hạn và sự trường tồn của đảng Cộng sản thì đó là đạo đức, là thiện, là tốt. Ngược lại, những gì bất lợi cho sự độc quyền cai trị và quyền lợi của đảng cộng sản thì đều là vô đạo đức, là ác, là xấu. Có hiểu như thế chúng ta mới có thể cắt nghĩa được tại sao ông Hồ Chí Minh được coi là gương mẫu “ạo ức” của người Cộng sản, HCM đã từng:

‒ ra lệnh giết oan hàng trăm ngàn người vô tội trong phong trào “Cải Cách Ruộng Đất”;

‒ lấy hàng chục người vợ cách bí mật mà vẫn cứ công khai tuyên bố mình độc thân để mọi người lầm tưởng rằng ông hy sinh hạnh phúc gia đình hầu toàn tâm toàn ý lo cho hạnh phúc của toàn dân; đã thế, ông còn để thuộc hạ giết chết vợ mình là Nông Thị Xuân khi bà này đòi công khai cuộc hôn nhân giữa hai người;

‒ mạo danh tác giả Trần Dân Tiên để viết cả một cuốn sách tự ca tụng mình cách hợm hĩnh;

‒ ra lệnh cho Phạm Văn Đồng ký công hàm năm 1958 công nhận hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của VNCH thuộc chủ quyền của Tàu cộng;

‒ nướng hàng triệu thanh niên nam nữ miền Bắc trong chiến trường miền Nam để gieo đau thương tang tóc cho đồng bào miền Nam suốt từ 1959 đến 1975 và suốt từ 1975 đến nay;

‒ ra lệnh đánh phá miền Nam vào ngay ngày đình chiến tết Mậu Thân 1968, trong đó bộ đội của ông giết và chôn sống hàng ngàn người dân vô tội ở Huế cách hết sức dã man, và ông vui mừng coi đó là một chiến thắng vẻ vang;

‒ lập ra một đảng cướp gọi là “đảng Cộng sản Việt Nam ” để cướp chính quyền, để sau đó cướp hết quyền tự do, quyền con người của người dân, quyền tự quyết của dân tộc, hầu tha hồ giết người cướp của cho đầy ắp túi tham của mình…

Theo quan niệm bình thường của đại đa số người dân trên thế giới, những hành vi ấy của Hồ Chí Minh đều là những tội ác tày trời. Thế nhưng đảng CSVN lại coi ông là người “đạo đức” nhất, đáng làm gương cho tất cả mọi đảng viên cộng sản noi theo. Và đảng CSVN gọi thứ “đạo đức” ấy là “đạo đức Hồ Chí Minh”. Tại sao vậy? Vì như đã trình bày ở trên, đối với đảng cộng sản, bất kỳ hành vi nào có lợi cho sự nắm quyền cai trị vô thời hạn của đảng trên dân tộc mình, đều là “đạo đức” hết. Mà tất cả những tội ác tày trời vừa kể của Hồ Chí Minh đều có đặc tính là đặt quyền lợi của đảng cộng sản lên trên hết, đều nhắm đến việc bảo vệ sự trường tồn thống trị của đảng cộng sản trên dân tộc Việt Nam. Nên đó chính là những hành vi “đạo đức” theo quan niệm của người cộng sản.

Theo quan niệm của đảng Cộng sản, giết oan người vô tội cách dã man mà có lợi cho đảng thì đó là đạo đức. Nói dối, lường gạt mọi người dù trắng trợn hay trơ trẽn nhất để có lợi cho đảng thì đó là đạo đức, là nói đúng sự thật. Bán hết cả đất nước cho kẻ thù, làm cho toàn dân tộc phải điêu linh đau khổ, nhưng nếu điều ấy có lợi cho sự cầm quyền của đảng, thì đó là đạo đức. Giết người, cướp của, hối lộ… nhưng trung thành với đảng, sẵn sàng làm những gì có lợi cho sự tồn tại của đảng thì đều là công đức, đáng khen thưởng.

Do đó, cần phải hiểu cho chính xác một số thuật ngữ ‒ liên quan đến các giá trị ‒ mà cộng sản thường dùng trên các phương tiện truyền thông của họ. Người cộng sản hiểu nội dung những thuật ngữ này hoàn toàn khác với cách mọi người trên thế giới thường hiểu:

‒ “Tổ quốc”, “quốc gia”, “quê hương”, “nhân dân”, “dân tộc” luôn luôn được đồng hoá với đảng cộng sản. “Trung thành với tổ quốc” hoàn toàn đồng nghĩa với trung thành với đảng. Ai đứng về phe nhân dân, bênh vực quyền lợi của người dân, bảo vệ lãnh thổ quốc gia, nhưng nếu hành động ấy có hại cho quyền lợi của đảng thì người đó vẫn bị kết án là “phản bội tổ quốc”, là “chống lại nhân dân”… Những tội như “xâm phạm an ninh quốc gia” hoàn toàn không có gì liên quan đến “quốc gia” hay “dân tộc” theo nghĩa ta thường hiểu, mà chỉ có nghĩa là “xâm phạm đến sự an toàn của đảng cộng sản” hoặc “đe doạ độc quyền cai trị của đảng cộng sản”. Đối với người cộng sản, từ ngữ “quốc gia”, “dân tộc” ‒ theo nghĩa chung mà mọi người thường hiểu ‒ đều không là gì cả, không có giá trị bao nhiêu. Nó chỉ được coi là một thực thể đáng quan tâm khi nó được đồng hoá với “đảng cộng sản”. Do đó, xâm phạm tới lợi ích của đảng cộng sản thì luôn luôn bị họ kết án là “xâm phạm lợi ích quốc gia”. Có hiểu như vậy, ta mới thấy rằng đảng cộng sản cho việc Tàu cộng vào khai thác bauxit hay việc nhường biển và lãnh thổ cho Tàu cộng là không hề nguy hiểm gì cho “an ninh quốc gia” cả; trái lại đó là cách “bảo vệ an ninh quốc gia” vì nó bảo vệ cho sự cai trị vĩnh cửu của đảng cộng sản. Những người như cô Phạm Thanh Nghiên, blogger Người Buôn Gió, hay những sinh viên biểu tình chống Tàu cộng chiếm Hoàng Sa Trường Sa, phản đối việc Tàu cộng khai thác bauxit ở Tây Nguyên đều bị đảng coi là “xâm phạm an ninh quốc gia”. Sao vậy? Vì điều đó cản trở việc Tàu cộng bảo trợ cho độc quyền cai trị của đảng CSVN. Khi Tàu cộng đang bảo trợ cho sự cai trị của đảng, thì ai chống Tàu là chống đảng, mà chống đảng chính là “chống lại quốc gia dân tộc”.

‒ “Sự thật” lớn nhất theo quan điểm của người cộng sản phải được phát biểu đại khái thế này: “Đảng cộng sản là đảng tốt nhất trần gian, xứng đáng được mọi người phục vụ hơn bất kỳ một tập thể nào cho dù tập thể đó là quê hương dân tộc; và đảng cộng sản xứng đáng cai trị đất nước hơn bất kỳ đảng phái nào”. Tất cả những phát biểu nào ngược lại với “sự thật” ấy thì đều là “giả dối”, là “sai lạc”. Từ đó suy ra: tất cả những gì có lợi cho quyền lực của đảng, cho sự cai trị vô hạn của đảng, dù những điều ấy hoàn toàn trái ngược với thực tế, đều được coi là “sự thật”. Còn tất cả những gì có khuynh hướng coi đảng cộng sản là xấu, kém, tồi, hoặc những gì bất lợi cho sự cầm quyền của đảng, cho dù có đúng với thực tế 100% cũng đều bị coi là “xuyên tạc”, là “bóp méo sự thật” hết! Dân gian thường bảo: “nói dối như vẹm”, nhưng người cộng sản không hề cho rằng họ nói dối, dù những điều họ đang nói hoàn toàn trái ngược với thực tế. Họ cho những điều họ nói là hoàn toàn có lợi cho đảng của họ, nên đó chính là “sự thật”. Hiện nay, cả thế giới đều biết Việt Nam là một nước tụt hậu nhất, kém dân chủ nhất, vi phạm nhân quyền nhiều nhất, và đảng cộng sản là kẻ đàn áp và khủng bố người dân nhiều nhất. Nhưng bất kỳ ai nói lên điều ấy thì đều bị kết án là “xuyên tạc”, “vu khống”, “nói sai sự thật”, và kẻ ấy… đương nhiên vào tù! Có quan niệm như thế chúng ta mới dễ hiểu câu tuyên bố công khai của ông Nguyễn Tấn Dũng trước thế giới: “Tôi yêu nhất, quý nhất là sự trung thực và tôi cũng ghét nhất, giận nhất là sự giả dối”, mặc dù ai cũng biết rằng ông nói dối như cuội. Từ ngữ “sự trung thực” trong câu của ông không có nghĩa nào khác ngoài “những gì có lợi cho sự cai trị của đảng CSVN”, còn “sự giả dối” chỉ có nghĩa là “những gì ngược với quyền lợi đảng CSVN”.

‒ “Tự do” là tình trạng hay khả năng làm tất cả những gì phù hợp với quyền lợi hay sự cai trị của đảng. Người có khuynh hướng làm ngược với quyền lợi của đảng là người “không có tự do”, là hạng “nô lệ” cần được “giải phóng”. Theo nghĩa đó, trước 1975, miền Bắc Việt Nam được coi là “vùng tự do”, còn miền Nam là “vùng nô lệ”, nên miền Bắc phải “giải phóng” miền Nam để miền Nam được “tự do”. Các cán bộ cộng sản hiện nay thường nói một cách rất vô tư, thành thật, không hề ngượng miệng: “Nước Việt Nam ta tự do gấp triệu lần những nước khác”. Tại sao? Vì quả thật hiện nay, họ được tha hồ làm bất cứ điều gì ‒ ăn cướp, hối lộ, tham nhũng, giết người, đánh đập, hiếp dâm… ‒ miễn sao điều đó có lợi hay ít nhất là vô hại cho sự cai trị của đảng CSVN, và miễn sao họ tỏ ra trung thành với đảng là được. Ở những nước khác mà làm như vậy thì vô tù ngay tức khắc! Vì thế, chúng ta thấy các cán bộ cộng sản cứ cướp đất cướp nhà của dân, hết nhà này tới nhà khác, mà vẫn sống phây phây, chẳng toà án nào kết án họ cả! Sao vậy? Vì họ luôn luôn tỏ ra trung thành với đảng, sẵn sàng bảo vệ đảng, nên đối với đảng họ là những người “đạo đức”. Còn những người dân bị cướp nếu cứ kêu oan, cứ kiện tụng hoài làm mất mặt đảng thì đều bị kết án là vi phạm pháp luật, là “vô đạo đức”.

‒ “Hoà bình” là tình trạng của một xã hội đã được cộng sản nắm quyền cai trị, bất chấp người dân trong đó thường xuyên bị khủng bố, luôn luôn sống trong sợ hãi vì có thể bị giết, bị tù, bị cướp bất cứ lúc nào. Theo quan niệm của cộng sản, miền Nam Việt Nam chỉ bắt đầu có “hoà bình” kể từ năm 1975 về sau.

‒ “Đoàn kết” là cùng hợp nhau củng cố quyền lực cho đảng cộng sản, dưới sự lãnh đạo của đảng. Do đó “phá hoại đoàn kết” hay “phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc” là có những hành động làm cho người dân nhận ra sự thật về bản chất gian dối và độc ác của đảng, khiến họ không còn tin tưởng hay chấp nhận sự lãnh đạo của đảng, dẫn đến việc không cộng tác với đảng, xa rời đảng hay chống lại đảng.

‒ “Thế lực thù địch” là bất kỳ thế lực nào không chấp nhận hoặc gây bất lợi cho sự cai trị vô thời hạn của đảng cộng sản trên đất nước mình. Dù thế lực ấy có yêu nước và có làm lợi cho quê hương đất nước tới đâu, nhưng hễ gây bất lợi cho sự cai trị của đảng cộng sản thì đều bị coi là “thế lực thù địch” cần phải tiêu diệt. Những thế lực đấu tranh đòi tự do, dân chủ, nhân quyền, công bằng xã hội cho người dân ‒ điều này đương nhiên bất lợi cho sự cai trị của đảng ‒ dù ở trong hay ngoài nước, đều là những “thế lực thù địch”.

Đó chỉ là một vài từ ngữ điển hình. Vì giới hạn của bài, tác giả không thể kể hết ra đây tất cả những từ ngữ được cộng sản dùng với những ý nghĩa hết sức khác với nghĩa chung mà mọi người trên thế giới thường hiểu.

“Đạo đức Hồ Chí Minh” mà đảng CSVN hiện nay đang hô hào toàn đảng toàn dân học tập và thực hành, trong thực tế chính là những gì mà mọi người có lương tri trên thế giới đều hiểu là dã man, tàn bạo, độc ác, gian trá, tráo trở, lường gạt… Giữa “đạo đức Hồ Chí Minh” và đạo đức của các tôn giáo hay của lương tri con người hầu như luôn luôn có một sự trái ngược: Điều được coi là thiện, là tốt, là chân thực trong thứ đạo đức này thì lại là ác, là xấu, là giả dối trong thứ đạo đức kia, và ngược lại. Vì thế, mặc dù được đảng CSVN đề cao và hô hào học tập từ nhiều thập niên trước, nhưng thứ “đạo đức” ngược hẳn lại lương tri này đã bị dân chúng tẩy chay và đi vào quên lãng. Nay trước nguy cơ bị dân chúng nổi dậy lật đổ, đảng CSVN lại đề cao thứ “đạo đức” ngược đời này và ô hào các cán bộ, đảng viên của mình học tập và thực hành. Mục đích của họ là động viên và thúc đẩy các cán bộ, đảng viên sẵn sàng làm tất cả những gì độc ác, tàn bạo nhất với những người dân nào không chịu nổi sự đàn áp của đảng CSVN nên muốn nổi dậy lật đổ chế độ phi nhân, hầu bảo vệ và duy trì sự cai trị của đảng CSVN trên toàn dân tộc. Tất cả những hành vi tàn bạo độc ác nhất nhằm bảo vệ chế độ đều được CSVN coi là “đạo đức”, thứ đạo đức được mệnh danh là “đạo đức Hồ Chí Minh”.

Nguyễn Chính Kết
Houston, 9-9-2009

BAN CAO TRANG TOI AC CONG SAN VIET NAM

Nghị Viện Âu Châu Lên Án Các Chế Độ Cộng Sản
Bản Cáo Trạng Tám Mươi Năm Tội Ác Của Cộng Sản Việt Nam
Năm 1996, Nghị Viện Âu Châu đã thông qua Nghị Quyết số 1906 để đưa ra những biện pháp nhằm tháo gỡ những di sản của những hệ thống cộng sản chuyên chế trước đây. Về phương diện định chế, những di sản này gồm: tập trung quyền hành tối đa, quân sự hoá các tổ chức dân sự, chế độ quan liêu, sự độc quyền và quy luật hoá tối đa mọi sinh hoạt xã hội. Về phương diện xã hội, những di sản này gồm: chủ nghĩa tập thể, chủ nghĩa tuân thủ mù quáng và những khuôn mẫu suy tư độc đoán.
Riêng tại Việt Nam, ngoài các di sản kể trên, cộng sản còn để lại nhiều di sản độc hại khác. Đó là sự phá hoại nền đạo lý và nếp sống theo văn hoá nhân văn, nhân bản truyền thống của dân tộc, và thay thế vào đó bằng một thứ văn hoá xã hội chủ nghĩa rừng rú và phi nhân tính. Những vụ con cái đấu tố cha mẹ, vợ chồng, anh chị em đấu tố nhau… một cách man rợ trong thời kỳ “Cải Cách Ruộng Đất” từ 1953 đến 1956 là những hành vi vô luân vượt ra ngoài sự tưởng tượng của những kẻ vô đạo nhất. Đây là tội phá hoại văn hiến, tội chống lại quốc gia của Hồ Chí Minh. Không có cái công nào có thể chuộc được cái tội này. Những di sản độc hại này đã di căn vào toàn bộ cơ thể xã hội hôm nay, và còn tiếp tục gây tác hại cho tới khi nào cộng sản còn thống trị đất nước.
Tham chiếu Nghị Quyết trên đây, năm 2006, Nghị Viện Âu Châu đã thông qua thêm Nghị Quyết số 1481 nhằm tố cáo và lên án những vi phạm nghiêm trọng về nhân quyền của những chế độ cộng sản đã cai trị ở Trung và Đông Âu trong thế kỷ 20 và các chế độ cộng sản còn đang tiếp tục thống trị tại bốn quốc gia trên thế giới trong thế kỷ 21 gồm Trung Cộng, Việt Cộng, Hàn Cộng và Cuba. Tất cả những chế độ cộng sản này – không có ngoại trừ – đã có một đặc tính chung là những vi phạm nghiêm trọng về nhân quyền.
Những vi phạm nhân quyền của các chế độ cộng sản bao gồm những vụ ám sát và xử tử các cá nhân và tập thể, giết người trong các trại tập trung, bỏ đói, bắt lưu đầy, tra tấn, hành hạ, bắt làm lao nô, khủng bố thể chất và tinh thần, bách hại tôn giáo và chủng tộc; vi phạm tự do lương tâm, tự do tư tưởng, tự do phát biểu, tự do báo chí và thiếu vắng đa nguyên chính trị.
Nghị Viện Âu Châu nhận định rằng – sau sự sụp đổ của các chế độ cộng sản tại Trung và Đông Âu – đã không có một cuộc điều tra sâu rộng của cộng đồng quốc tế về những tội ác của các chế độ này. Và hơn nữa, những thủ phạm đã gây ra những tội ác cũng không bị mang ra xét xử tại một toà án hình sự quốc tế như trường hợp các thủ phạm đã gây những tội ác khủng khiếp trong chế độ Đức Quốc Xã. Do đó, sự hiểu biết về những tội ác của cộng sản trong công chúng rất hạn chế và những chế độ cộng sản còn sót lại vẫn tiếp tục phạm những tội ác chống nhân quyền.
Nghị Viện Âu Châu tin rằng sự hiểu biết thấu đáo về lịch sử là một trong những điều kiện tiên quyết để tránh những tội ác tương tự trong tương lai. Hơn nữa, việc thẩm định mang tính đạo đức và sự lên án những tội ác mà cộng sản đã phạm giữ một vai trò quan trọng trong việc giáo dục các thế hệ trẻ sau này. Quan điểm minh bạch về quá khứ sẽ soi sáng cho những hành động của cộng đồng thế giới trong tương lai.
Những chế độ cộng sản còn thống trị tại vài quốc gia trên thế giới vẫn tiếp tục vi phạm những tội ác chống nhân quyền. Những quốc gia trên thế giới không nên vì quyền lợi của quốc gia mình mà tránh né lên án những tội ác chống nhân quyền của các chế độ cộng sản toàn trị còn hiện hữu trên thế giới. Nghị Viên Âu Châu lên án mạnh mẽ những vi phạm nhân quyền của các chế độ cộng sản còn sót lại này.
Nghị Viện Âu Châu xác tín rằng quan điểm minh bạch của cộng đồng thế giới khi thảo luận và lên án những tội ác mà các chế độ cộng sản đã vi phạm là một bổn phận của đạo đức và không được trì hoãn lâu hơn nữa.
Nghị Viện Âu Châu cũng tin rằng những quan điểm minh bạch của cộng đồng thế giới đối với những tội ác mà các chế độ cộng sản đã vi phạm sẽ mở ra con đường hoà giải sau này. Và hy vọng rằng quan điểm minh bạch trên đây sẽ khuyến khích các sử gia trên toàn thế giới hãy tiếp tục tra cứu để thẩm định một cách chính xác và khách quan những tội ác mà cộng sản đã phạm.
Tám Mươi Năm Tội Ác Của Cộng Sản Việt Nam
Theo tinh thần của hai nghị quyết trên đây, việc thảo luận và lên án những tội ác mà cộng sản Viêt Nam đã phạm đối với dân tộc Việt Nam trong 80 năm nay là bổn phận của lương tri và đạo đức của mọi người Việt Nam. Việc tra cứu và thẩm định một cách chính xác và khách quan những tội ác của cộng sản Việt Nam và đưa những chánh phạm ra xét xử trước ánh sáng của công lý là một thể hiện công bằng và minh bạch để đưa đến hoà giải và thống nhất ý chí và tư tưởng của dân tộc đã bị phân hoá và chia rẽ bởi những di sản độc hại mà chế độ cộng sản đã để lại cho xã hội Việt Nam trong gần một thế kỷ kể từ năm 1930 đến nay.
Hệ thống luật pháp quốc gia không dự liệu những tội ác của cộng sản đối với dân tộc Việt Nam bởi vì đây là những tội ác nghiêm trọng có tính quốc tế. Những tội ác của cộng sản Việt Nam thuộc bốn nhóm tội ác đã được dự liệu tại Đạo Luật Rome (The Rome Statute) gồm: 1) Tội Ác Xâm Lược (The crime of Aggression); 2) Tội Ác Chiến Tranh (War Crimes); 3) Tội Ác Diệt Chủng (The crime of Genocide); 4) Tội Ác chống Nhân Loại (Crimes against Humanity). Sau đây xin lược kê và phân loại – theo bốn nhóm tội ác nói trên – một số tội ác của Việt cộng trong 80 năm nay.

I – Tội Ác Xâm Lăng VNCH
Theo công pháp quốc tế, Việt Nam Cộng Hoà hội đủ tám tiêu chuẩn để là một quốc gia độc lập:
1- VNCH có một lãnh thổ có biên cương được quốc tế công nhận.
2- VNCH là ngôi nhà chung của 22 triệu người Việt sinh sống trong đó.
3- VNCH có hoạt động kinh tế và có một nền kinh tế thị trường có tổ chức. VNCH có hoạt
động nội thương và ngoại thương và phát hành tiền tệ.
4- VNCH có một bộ giáo dục và một hệ thống giáo dục miễn phí từ bậc tiểu học đến đại học; ngoài ra còn có một hệ thống các trường cao đẳng chuyên nghiệp.
5- VNCH có một hệ thống chuyên chở quốc nội và quốc ngoại gồm đường bộ, xa lộ, thiết
lộ, đường thuỷ, đường hàng không, các bến xe, bến cảng và các phi trường để chuyên chở hành khách và hàng hoá trong nội địa và ra ngoại quốc.
6- VNCH có một chính phủ dân cử gồm ba nghành: hành pháp, lập pháp và tư pháp độc lập và kiểm soát lẫn nhau; có một Quân Lực gồm một triệu quân nhân dưới cờ với Hải Lục Không quân để bảo vệ tổ quốc và một lực lượng cảnh sát gồm hơn 200.000 nhân viên để giữ gìn trật tự và bảo vệ an ninh cho dân chúng.
7- VNCH là một quốc gia độc lập và có chủ quyền tuyệt đối trên lãnh thổ của quốc gia.
8- VNCH đã thiết lập liên lạc ngoại giao với hơn một trăm quốc gia trên thế giới, có toà đại sứ tại tất cả các quốc gia này kể cả tại bốn quốc gia thành viên thường trực của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc là Anh, Pháp, Mỹ và Trung Hoa Quốc Gia. VNCH là thành viên của nhiều tổ chức thuộc Liên Hiệp Quốc và cũng đã tham dự nhiều cuộc họp quốc tế.
Chiếu theo tám tiêu chuẩn được công pháp quốc tế công nhận trên đây, Việt Nam Cộng Hoà đương nhiên là một một quốc gia độc lập, có chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Do đó, khi cộng sản Miền Bắc xâm lăng Việt Nam Cộng Hoà bằng vũ lực vào tháng 4/1975, chúng đã phạm Tội Ác Xâm Lăng. Đây là một tội ác có tính quốc tế bởi vì cuộc xâm lăng này được yểm trợ và tiếp vận của khối Đệ Tam Quốc Tế. Điều này xoá bỏ luận điệu cho rằng cuộc chiến Việt Nam là một cuộc nội chiến. Thực chất, đây là một cuộc xâm lăng của khối cộng sản quốc tế thông qua bọn bán nước, tay sai Việt gian cộng sản.
30 Tháng 4 – 34 Năm Nhìn Lại
II – Tội Ác Chiến Tranh
Khi xâm lăng VNCH, cộng sản Bắc Việt đã phạm rất nhiều Tôi Ác Chiến Tranh được dự liệu tai Điều 8 của Đạo Luật Rome. Sau đây chỉ liệt kê tượng trưng 5 tội ác của chúng:
1 – Tội Ác Giết Người Có Chủ Tâm (Wilful killing)
a) Trong một bài nghiên cứu với tựa đề “Đàn Áp tại Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam:
Hành Hình và Phối Trí Dân Cư” “Repression in the Socialist Republic of Vietnam: Execution and Population Relocation” được phổ biến năm 1990, tác giả Jacqueline Desbarats đã xử dụng những nguồn tin chính thức của Việt cộng và phỏng vấn hơn 800 người Việt Nam tỵ nạn tại Pháp và Hoa Kỳ trong bốn năm để lấy tài liệu viết bài nghiên cứu này và ước tính rằng đã có ít nhất là 100.000 công dân của VNCH đã bị hành hình một cách phi pháp. “Extrajudicial, or summary, execution.” Tác giả đã nghiên cứu kỹ các hồ sơ và tìm thấy bằng chứng rằng cộng sản đã có một chương trình giết người sau năm 1975.
Sau tháng 4/1975, các uỷ ban quân quản và các toà án nhân dân được dựng lên trong khắp các thành phố tại Miền Nam VN để thi hành chương trình giết người phi pháp mà cộng sản đã hoạch định từ trước. Hai phần ba trong số 100.000 nạn nhân đã bị giết trong ba năm 1975, 1976 và 1977, số còn lại bi giết trong 7 năm tiếp theo. Những nạn nhân bị giết là những nhân viên của chính quyền VNCH gồm: các tỉnh trưởng, các quận trưởng, các thị trưởng, các thành phần cao cấp trong quân đội, các nhân viên cảnh sát, các nhân viên hành chánh và các thành phần tình báo. Những nạn nhân cũng gồm một số các nhà tư sản mại bản, một số các nhà lãnh đạo cộng đồng và tôn giáo, một số người Hoà Hảo, một số người tìm cách vượt biên và một số lớn những người tìm cách trốn khỏi các trại cải tạo. Cộng sản đã đưa ra lý lẽ mơ hồ như chống đối nhà nước để kết tội và giết người. Ngay cả những người từ chối ghi danh đi cải tạo cũng bị kết tội chống đối và bị giết.
Những vụ giết người có chủ tâm này đã được tính toán từ trước và không có một bảo đảm tối thiểu của một tiến trình luật pháp nào cả. Đây là một Tội Ác Chiến Tranh.
b) Trong tết Mậu Thân năm 1968, cộng sản đã tấn công và chiếm giữ được cố đô Huế trong 25 ngày. Ngay khi chiếm được thành phố, chúng cho bọn nằm vùng đi lùng sục từng nhà, tìm giết những người mà chúng có tên trong sổ đen. Tiếp sau đó, chúng lập những cái gọi là chính quyền cách mạng; chúng ra lệnh cho dân chúng đến trình diện; chúng giam giữ; sau đó chúng mang đi giết và thủ tiêu. Chúng lập những cái gọi là toà án nhân dân để kết án tử hình những người mà chúng cho là “chống đối cách mạng;” sau đó chúng cũng giết và thủ tiêu. Sau hết, trên đường tháo chạy khỏi Huế, chúng bắt một số người đi theo; chúng giết và thủ tiêu những người này. Sau này, dân chúng và chính quyền đã tìm được 22 hố chôn tập thể. Những nơi có nhiều hố chôn tập thể được biết đến nhiều nhất là trường tiểu học Gia Hội, Cồn Thông, Phú Thứ, Bãi Dâu, Khe Đá Mài… Tại Khe Đá Mài, vào tháng 9/1969, đã tìm thấy hơn 400 bộ hài cốt chỉ còn sọ và xương; da và thịt đã bị rã nát và bị nước cuốn trôi đi mất. Thân nhân các nạn nhân đã nhận diện được là nhờ những thẻ căn cước bọc nhựa, các giây chuyền và kỷ vật mang theo.
Tất cả các nạn nhân tìm thấy trong các hố chôn tập thể đều bị trói giật cánh khuỷu bằng dây điện thoại hay dây kẽm gai. Có nhiều nạn nhân chết trong tư thế đứng hay ngồi; điều đó chứng tỏ rằng họ đã bị chôn sống. Tại Huế, có hơn 4.000 gia đình có thân nhân bị giết hoặc mất tích. Con số 5.000 nạn nhân đã bị cộng sản thảm sát và thủ tiêu trong tết Mậu Thân năm 1968 là con số ước tính có xác xuất cao. Đây là những vụ giết người có chủ tâm và là Tội Ác Chiến Tranh.
2 – Tội Ác Tấn Công Có Chủ Tâm Vào Dân Chúng hoặc Những Cá Nhân Không Tham Gia Vào Cuộc Chiến.
a) Trong cuộc hành quân triệt thoái khỏi cao nguyên trung phần vào tháng 3/1975 của Quân Đoàn II trên tỉnh lộ 7B, đã có khoảng 200.000 dân chúng di tản theo quân đội. Cộng quân đã pháo kích và bắn trực xạ vào đoàn người chạy loạn. Chúng đuổi theo, tấn công liên tiếp một cách man rợ vào đoàn người này trong nhiều ngày suốt theo chiều dài của tỉnh lộ 7B. Chỉ có khoảng 40.000 người đã thoát được tầm đạn của chúng. Chúng đã giết 160.000 đồng bào vô tội gồm đàn bà và trẻ nhỏ. Những xác chết này không ai chôn cất, nằm phơi sương nắng ngoài trời, làm mồi cho chim chóc và muông thú. Số nạn nhân này gấp hai lần số nạn nhân của quả bom nguyên tử thả xuống thành phố Hiroshima của Nhật Bản ngày 6-8-1945. Đây là một Tội Ác Chiến Tranh.
b) Trên QL1 giữa Quảng Trị và Huế có một đoạn đường được đặt tên là “Đại Lộ Kinh Hoàng” vì những tội ác kính hoàng mà cộng quân đã gây cho người dân Quảng Trị. Trong mùa hè đỏ lửa năm 1972, người dân Quảng Trị chạy giặc cộng sản trên đoạn đường này đã bị cộng quân pháo kích như mưa bằng súng cối 61 ly và B40. Trên một đoạn đường dài 9km, nhầy nhụa máu, đầy những xác chết không toàn thây. Khi đi tìm kiếm và lượm xác, người ta đã thấy thi hài một cháu nhỏ đang ngậm vú thi hài người mẹ. Tuy không có con số thống kê chính xác nhưng số nạn nhân được ước đoán cũng phải trên mười ngàn người gồm người già, đàn bà và trẻ em. Đây là tội ác tấn công có chủ tâm vào dân chúng và là một Tội Ác Chiến Tranh.
3 – Tội Ác Pháo Kích Vào các Thành Phố, Thị Xã…Để Giết Dân
Trong cuộc chiến xâm lăng VNCH kéo dài 20 năm, Việt cộng đã pháo kích hàng ngàn lần vào các thành phố, thị xã, quận lỵ…để giết dân lành. Điển hình nhất là cuộc pháo kích của Việt cộng vào trường tiểu học Cai Lậy. Buổi sáng ngày 9-3-1973, khi hàng trăm học sinh của trường tiểu học tại thị trấn Cai Lậy đang xếp hàng để vào lớp thì Việt cộng pháo kích vào sân trường bằng súng cối 82 ly. Trận pháo kích man rợ này đã giết chết 34 cháu và làm bị thương cho 70 cháu. Cuộc pháo kích giết các cháu nhỏ một cách dã man này đã gây kinh hoàng và phẫn nộ cho toàn dân Miền Nam. Đây là một Tội Ác Chiến Tranh man rợ của quân cộng sản khát máu.

4 – Tội Ác Phá Hoại Những Di Tích Lịch Sử
Sau ngày 30-4-1975, quân xâm lăng cộng sản đã phá huỷ những di tích lịch sử của VNCH Chúng đập phá và san thành bình địa nhiều nghĩa trang được xây dựng đã hàng trăm năm. Nghĩa Trang Mạc Đĩnh Chi tại Saigòn, nơi chôn cất nhiều nhân vật lịch sử của Miền Nam Việt Nam, đã bị cộng sản san thành bình địa và xây trên đó một công viên mang tên Lê Văn Tám, một cái tên do tên cán bộ tuyên truyền Trần Huy Liệu phịa ra để tuyên truyền bịp bợm.
Với thú tính hận thù giai cấp, cộng sản đã phá huỷ hơn 50 nghĩa trang Quân Đội VNCH trong toàn Miền Nam Việt Nam. Chúng đào bới, lấy hài cốt mang đi thủ tiêu và san thành bình địa tất cả các nghĩa trang này.
Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hoà là Nghĩa Trang Quốc Gia của VNCH, nơi chôn cất 16.000 anh hùng tử sĩ QLVNCH, cũng bị cộng sản chủ tâm triệt hạ. Nghĩa Trang Quốc Gia này là một tập thể kiến trúc nhất quán đậm vẻ văn hoá truyền thống đặc thù của dân tộc Việt Nam từ cổng tam quan đến đền tử sĩ và nghĩa dũng đài cùng với cảnh quan tổng thể. Cộng quân đã không phá huỷ và san thành bình địa Nghĩa Trang này mà chúng tìm cách phá hoại tinh vi hơn. Chúng giật sập và mang đi thủ tiêu Bức Tượng Thương Tiếc, một bức tượng đã đi vào huyền thoại của lịch sử. Chúng không cho thân nhân thăm viếng, tảo mộ. Chúng chủ tâm để cho Nghĩa Trang bị hoang phế. Chúng đập phá các mộ bia, san bằng các ngôi mộ. Chúng đập phá Nghĩa Dũng Đài. Chúng để cho Nghĩa Trang bị lấn chiếm mất hơn một nửa diện tích. Và sau hết, để biến Nghĩa Trang Quốc Gia này thành một nghĩa địa dân sự và cải danh thành nghĩa địa Bình An, ngày 27-11-2006, tên thủ tướng cộng sản Nguyễn Tấn Dũng đã ký quyết định cho nguỵ quyền tỉnh Bình Dương: “Chỉ đạo việc quản lý nghĩa địa Bình An bình thường như các nghĩa địa khác theo quy định của chính phủ.”
Phá huỷ và triệt hạ Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hoà, một Nghĩa Trang Quốc Gia, một di sản lịch sử, không chỉ là Tội Ác Chiến Tranh mà còn là Tội Phá Hoại Văn Vật.
Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hoà – 34 Năm Nhìn Lại

5- Tội Cướp Bóc (Pillaging)
Khi xâm lăng VNCH, cộng sản đã hành sử như một lũ thổ phỉ đi ăn cướp:
a) Chúng cướp 16 tấn vàng trong ngân khố quốc gia của VNCH. Những tên đầu sỏ cộng sản đã chuyên chỏ số vàng ăn cướp này ra ngoài Bắc và dấm dúi chia nhau.
b) Chúng cướp tất cả kho tàng dự trữ của VNCH và chuyên chở ngày đêm về Miền Bắc bằng đường bộ, đường thuỷ và đường hàng không trong nhiều tháng trời.
c) Chúng ăn cướp nhà của những người vượt biên và chia cho nhau.
d) Chúng cưỡng bức người dân thành thị đi lưu đày tại những “vùng kinh tế mới” để chúng cướp nhà và chia cho nhau.
e) Chúng bắt người dân phải hiến nhà cho chúng trước khi xuất cảnh.
f) Chúng hạ thấp trị giá đồng tiền của VNCH và tổ chức đổi tiền hai lần để cướp tiền của dân. Mỗi lần đổi tiền, chúng chỉ trả lại cho người dân một số ít để chi tiêu trong một thời gian ngắn và chúng cướp sạch số còn lại.
g) Chúng tổ chức đánh tư sản mại bản để cướp tài sản, cướp cửa hàng và kho hàng của thương gia.
h) Chúng cướp các nhà máy, các xí nghiệp của tư nhân để thành lập các hợp tác xã của chúng.
i) Chúng cướp tiền của dân chúng ký thác tại các ngân hàng.
j) Chúng ăn cướp bất động sản của các tôn giáo.
k) Chúng dùng luật lệ rừng rú của chúng để cướp đất, cướp nhà của dân.
l) Chúng cướp ruộng của nông dân qua thủ đoạn “hợp tác hoá nông nghiệp.”
Tóm lại, bọn cộng phỉ đã cướp trắng tài sản quốc gia của VNCH và của cải của toàn dân Miền Nam Việt Nam đã chắt chiu, dành dụm hàng bao nhiêu đời. Toàn dân Miền Nam đã bị bần cùng hoá. Những tên đầu sỏ cộng sản đã chia nhau của ăn cướp và chúng đã trở thành những tên tư bản đỏ hàng trăm triệu dollars. Những bức hình chụp những đồ vật trang trí trong “dinh thự” tại Hà Nội của tên đầu sỏ cộng sản Lê Khả Phiêu – mới đưọc đưa lên hệ thống internet toàn cầu – đã tố cáo không thể chối cãi tội ăn cướp của chúng. Toàn là những thứ đi ăn cướp của Miền Nam.
III – Tội Ác Diệt Chủng
Điều 6 của Đạo Luật Rome đã định nghĩa Tội Ác Diệt Chủng là những hành động có chủ tâm tiêu diệt – toàn phần hay một phần – một nhóm dân tộc, sắc tộc, bộ tộc hay tôn giáo; những hành động đó là: (a) Giết các thành phần của nhóm; (b) Gây thương tích trầm trọng về thể chất và tinh thần cho các thành phần của nhóm; (c) Chủ tâm gây tác hại đến điều kiện sống với âm mưu tiêu diệt toàn thể hay một phần của nhóm.
Theo định nghĩa trên đây thì vụ “Cải Cách Ruộng Đất” tại Miền Bắc là Tội Ác Diệt Chủng của Hồ chí Minh nhằm tiêu diệt bốn thành phần – trí, phú, địa, hào – trong xã hội Miền Bắc.
Đầu năm 1950, từ khu rừng núi Bắc Việt, Hồ Chí Minh đã bí mật đi Liên Xô để cầu viện. Tại đây, Hồ Chí Minh đã gặp Stalin và Mao Trạch Đông. Stalin đã ra lệnh cho Hồ phải “Cải Cách Ruộng Đất.” Sau khi trở về Bắc Việt, Hồ đã tự tay viết một báo cáo bằng Nga ngữ về kế hoạch “Cải Cách Ruông Đất” gửi Stalin để xin chỉ thị.
Năm 1953 là năm bắt đầu kế hoạch “Cải Cách Ruông Đất.” Từng đoàn cố vấn Tầu và các đội cải cách – đã được Tầu huấn luyện – đằng đằng sát khí, mặt sắt đen sì, răng đen mã tấu đổ về các vùng quê để “phóng tay phát động quần chúng” thực hiện kế hoạch giết người. Theo lệnh của cố vấn Tầu, người bị Hồ Chí Minh cho bắn chết đầu tiên trong đợt thí điểm là bà Nguyễn Thị Năm tức bà Cát Thanh Long, một người yêu nước, chủ một đồn điền ở tỉnh Thái Nguyên và là ân nhân của cộng sản. Bà Năm đã từng giúp đỡ tiền bạc, nuôi dưỡng, che giấu những tên đầu sỏ cộng sản như Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Nguyễn Lương Bằng, Lê Thanh Nghị, Hoàng Quốc Việt… khi chúng còn sống chui nhủi trong rừng. Trong cuộc đấu tố bà Nguyễn Thị Năm, những nông dân bị chỉ định ra đấu tố bà Năm không một người nào kết tội người đàn bà phúc hậu và cũng là ân nhân của họ về những tội mà cộng sản bịa đặt cho bà. Nhưng cuối cùng, theo lệnh của cố vấn Tầu, cộng sản vẫn bày trò gian sảo để bắn chết người đàn bà ân nhân của chúng.
Cuộc đấu tố dã man này mà cộng sản gọi là “cuộc cách mạng long trời lở đất” kéo dài từ năm 1953 tới năm 1956 đã giết và bức hại 5% – chỉ tiêu do Mao Trạch Đông đặt ra – của 14 triệu nông dân Miền Bắc tức 700.000 người, những người nông dân chân chỉ đã cả ngàn năm cúi mặt xuống những cánh đồng ngập nước, đổi từng bát mồ hôi lấy những hạt gạo để nuôi cả dân tộc. Khắp nông thôn Miền Bắc ảm đạm, thê lương, trắng xoá khăn tang, đẫm máu và nước mắt.
Trong vụ “Cải Cách Ruông Đất” này, ngoài Tội Ác Diệt Chủng, Hồ Chí Minh còn phạm một tội
đại hình theo luật pháp quốc gia; đó là tội phản quốc, Việt gian.
IV- Tội Ác chống Nhân Loại
Điều 7 của Đạo Luật Rome đã liệt kê và định nghĩa 11 tội ác chống nhân loại. Trong gần một thế kỷ nay, cộng sản đã phạm ít nhất là 7 trong số 11 tội ác nói trên như sau:
1-Tội Ác Lưu Đầy hoặc Cưỡng Bức Di Dân (Deportation or Forcible transfer of Population)
Điều 7 của Đạo Luật Rome đã định nghĩa Tội Ác Lưu Đày hoặc Cưỡng Bức Di Dân như sau: “Cưỡng bức người ta ra khỏi nơi cư trú hợp pháp bằng cách trục xuất hay bằng những biện pháp bạo lực bất kể đến luật pháp quốc tế.”
Theo định nghĩa trên đây thì cộng sản đã phạm Tội Ác Chống Nhân Loại khi chúng cưỡng bức người dân Miền Nam đi những “khu kinh tế mới.”
Những thành phần mà cộng sản cưỡng bức đi vùng kinh tế mới gồm: 1) những người không có việc làm và có khó khăn về kinh tế; 2) những người có việc làm nhưng tạm thời có khó khăn và không có gì bảo đảm trong tương lai; 3) Gia đình các quân nhân và công chức có thân nhân đã và đang bị cải tạo; 4) những người có phương tiện sản xuất và trang cụ.
Để thực hiện kế hoạch tội ác này, cộng sản vừa phủ dụ vừa cưỡng bức. Cộng sản khoe khoang rằng trong năm đầu tiên, chúng đã đưa được nửa triệu người Saigon đi các vùng kinh tế mới và 80% trong số này là ra đi tình nguyện; như vậy có nghĩa là 100.000 người Saigon đã bị cộng sản cưỡng bức đi lưu đày tại các vùng kinh tế mới. Người dân Miền Nam đã âm thầm chống lại kế hoạch lưu đày này và cộng sản đã đe doạ sẽ bỏ tù hoặc đưa đi cải tạo những người chống đối. Người dân Miền Nam vẫn tiếp tục kiên trì chống đối và cộng sản cũng gia tăng cưỡng bức bằng cách tống xuất khỏi thành phố và tịch biên tài sản. Tuy nhiên, trước sự chống đối âm thầm nhưng cương quyết của người dân Miền Nam, cuối cùng thì cộng sản đã phải chấm dứt âm mưu đưa người dân Miền Nam đi lưu đày tại những “khu kinh tế mới.” sớm hơn theo kế hoặch dự trù của chúng.
Một trong những âm mưu đen tối của cộng sản khi cưỡng bức người dân Saigon đi vùng kinh tế mới là để cướp nhà và đưa gần một triệu người của chúng từ Miền Bắc vào Saigon. Cuối cùng thì cộng sản đã đưa được ít nhất là một triệu người Miền Nam đi lưu đày tại những khu “kinh tế mới.” Đây là Một Tội Ác chống Nhân Loại.
Tội Ác CSVN: Giam Cầm, Cải Tạo, Ly Tán Đồng Bào Miền Nam
2-Tội Giết Người (Murder)
Sau đây chỉ liệt kê một số ít những trường hợp giết người của cộng sản được biết đến nhiều nhất.
* Trong quãng thời gian từ 1945 đến 1954, cộng sản đã giết khoảng 50.000 đảng viên của các đảng phái quốc gia, trong đó có một số người được biết đến nhiều như: Nguyễn Thế Nghiệp, Nguyễn Ngọc Sơn, Đào Chu Khải, Trương Tử Anh, Lý Đông A và nhà văn Khài Hưng.
* Hai nhân vật quan trọng thuộc nhóm Bảo Hoàng là Phạm Quỳnh và Ngô Đình Khôi (cùng với con trai là Ngô Đình Huân) bị giết ngày 6-9-1945.
* Ba nhân vật nổi tiếng của Nhóm Đệ Tứ gồm Phan Văn Hùm và Trần Văn Thạch bị bắt ngày 10-8 1945 và bị mang đi chôn sống tại Bình Thuận. Tạ Thu Thâu bị giết tháng 9-1945 tại Quảng Ngãi.
* Các nhân sĩ và lãnh tụ chính trị của Miền Nam gồm: Ông Bùi Quang Chiêu cùng với bốn người con trai bị bắt tại Chợ Đệm ngày 29-9-1945, bị đem đi giết và bị thủ tiêu mất xác; Ông Hồ Văn Ngà bị bắt trong đêm khuya, bị đâm chết và bị thả trôi sông thuộc vùng Kim Quy, Đá Bạc, Rạch Giá; Ông Hồ Vĩnh Ký bị giết tại Dĩ An, Biên Hoà; Ông Huỳnh Văn Phương bị giết tại Tân An, Long An; Ông Phan Văn Chánh bị giết tại Sông Mao, Bình Thuận.
* Theo nguồn tin của Cao Đài Giáo cho biết thì chỉ trong ba tuần lễ kể từ ngày 19-8-1945, tại Quảng Ngãi, cộng sản đã giết 2791 tín đồ Cao Đài gồm đủ thành phần kể cả đàn bà và trẻ nhỏ. Số tín đồ Cao Đài bị giết trong toàn Miền Nam trong năm 1945 là khoảng 10.000 người.
* Đêm 16-4-1947, Giáo Chủ Huỳnh Phú Sổ bị cộng sản phục bắt tại Đốc Vàng Hạ; từ đó đến nay không có tin tức gì về Ngài. Theo thống kê của phật giáo Hoà Hảo thì cộng sản đã giết và chôn tập thể khoảng 10.000 tín đồ Hoà Hảo.
* Đêm 11-2-1957, Cô Nông Thị Xuân bị giết bằng búa đập vào đầu tại Phủ Chủ Tịch của Nhà Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Xác bị thủ tiêu. Hồ Chí Minh là chánh phạm vụ này.
3 – Tội Hiếp Dâm và Ép Buộc Mang Thai “Rape and Forced Pregnancy”
Theo Hiệp Định Geneve 1954, quân cộng sản phải rút về phía bắc vĩ tuyến 17. Trước khi rút khỏi những vùng do chúng kiểm soát, cộng sản đã tổ chức cho cán binh, cán bộ của chúng hiếp dâm tập thể – dưới hình thức hôn nhân giả mạo – tất cả những người con gái độc thân cho tới khi mang thai trước khi chúng ra đi. Khi đến tiếp thu những vùng này, Quân Đội Quốc Gia Việt Nam đã thấy có rất nhiều phụ nữ có con sơ sinh hoặc có thai nhưng không có chồng. Đây là Tội Ác Chống Nhân Loại man rợ của quân cộng sản vô nhân tính.
4 – Tội Ác Bắt Làm Nô Lệ (Enslavement)
Điều 7 của Đạo Luật Rome đã định nghĩa tội ác Bắt Làm Nô Lệ như sau: Bắt làm nô lệ có nghĩa là xử dụng quyền lực để tước đoạt quyền tư hữu của một người gồm cả việc xử dụng quyền lực để buôn người, đặc biệt là đối với đàn bà và trẻ em.
Căn cứ vào định nghĩa trên, cộng sản đã phạm các Tội Ác chống Loài Người sau đây:
- Xuất cảng hàng trăm ngàn lao động để kiếm lời là một hình thức buôn người
- Tổ chức hàng chục ngàn cuộc hôn nhân trá hình để đưa đàn bà Việt Nam đi làm nô lệ tình dục cho đàn ông nước ngoài để kiếm lời là tội buôn người.
- Bán hàng ngàn trẻ em và thiếu nữ vào các động điếm tại Cam Bốt và các nước trong vùng Đông Nam Á để kiếm lời là tội buôn người.
- Bắt hàng triệu người tù trong các trại cải tạo sản xuất hàng hoá để bán ra ngoài thị trường là phạm tội tước đoạt quyền tư hữu của con người, bởi vì những sản phẩm này do người tù sản xuất ra là thuộc quyền sở hữu của họ nhưng đã bị cộng sản tước đoạt và đem bán. Những người tù này đã bị đối xử như những nô lệ lao động thời trung cổ.
Tệ Nạn Buốn Bán Phụ Nữ, Trẻ Em và Người Lao Động tại Việt Nam

5 – Tội Giam Người hoặc Tước Đoạt Tự Do Thân Thể Một Cách Nghiêm Trọng, Vi Phạm Những Quy Luật Cơ Bản của Luật Pháp Quốc Tế “Imprisonment or severe deprivation of physical liberty in violation of fundamental rules of international law”
Theo các tài liệu nghiên cứu có tính hàn lâm đã được phổ biến tại Hoa Kỳ và Âu Châu thì sau khi chiếm được Miền Nam Việt Nam, Cộng sản đã đưa 1.000.000 quân, dân, cán, chính của VNCH vào tù trong 150 trại cải tạo trong rừng núi từ Nam ra Bắc. Có nhiều người đã bị giam cầm tới 17 năm và theo Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ thì đa số thời gian bị giam giữ là từ ba tới 10 năm Đây là một sự giam cầm phi pháp, không qua một thủ tục pháp lý nào cả và là Tội Ác Chống Loài Người.
6 – Tội Thủ Tiêu Mất Tích Người “Enforced Disappearance of persons”
Cũng theo tài liệu nghiên cứu nói trên, trong thời gian giam cầm phi pháp 1.000.000 quân dân, cán, chính VNCH trong 150 trại cải tạo, cộng sản là thủ phạm đã gây ra những cái chết bằng tra tấn, hành hạ, bỏ đói, bắt làm khổ sai quá sức, xử bắn… cho ít nhất là 165.000 người. Cộng sản không thông báo tin tức cho gia đình người chết; giấu kín nơi chôn cất suốt 34 năm nay; không cho thân nhân bốc mộ, mang hài cốt về quê quán. Đây là Tội Thủ Tiêu Mất Tích Người và là Tội Ác chống Loài Người. Ngoài ra, đây còn là môt hành vi vô đạo, phi nhân tính gây đau khổ tinh thần triền miên suốt đời cho thân nhân các người chết mà nghị quyết 1481 của Nghị Viện Âu Châu có nói tới.
7 – Tội Đàn Áp chống Lại Một Nhóm hay Một Tập Thể có Tính Danh về … Tôn Giáo …“Persecution against identifiable group or collectivity on…religious…”
Điều 7 của Đạo Luật Rome đã định nghĩa đàn áp (persecution) như sau: đàn áp là sự tước đoạt có chủ tâm và thô bạo những quyền cơ bản trái với luật pháp quốc tế.
Căn cứ vào định nghĩa trên đây thì việc nguỵ quyền cộng sản đã và đang đàn áp một cách quy mô và có hệ thống các tôn giáo tại Việt Nam là Một Tội ác Chống Loài Người. Tội ác này đã và đang được cộng đồng thế giới đặc biêt quan tâm. Trên các trang nhà của các tổ chức như: Human Rights Watch, The United States Commission on International Religious Freedom, The Committee for Religious Freedom in Vietnam… đều có theo rõi và phổ biến tin tức về những vụ đàn áp tôn giáo thường xuyên tại Việt Nam.
Năm 2004, Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã đưa nguỵ quyền cộng sản vào danh sách “Những Nước Đặc Biệt Quan Tâm” “Countries of Particular Concern – CPC” vì lý do Đàn Áp Tôn Giáo. Nhưng năm 2006, Tổng Thống George W, Bush – vì những quyền lợi kinh tế của Hoa Kỳ – đã rút nguỵ quyền cộng sản ra khỏi danh sách CPC. Tuy nhiên, kể từ đó đến nay, hàng năm Uỷ Ban Quốc Tế về Tự Do Tôn Giáo của Hoa Kỳ (The U.S. Commission on International Religious Freedom) cũng yêu cầu Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đưa Việt cộng trở lại danh sách CPC.
Ngoài những tội ác trong bốn nhóm tội ác được dư liệu tại Đạo Luật Rome trên đây, Việt cộng còn là thủ phạm của những siêu tội ác vượt ra ngoài sự tưởng tượng của con người. Sau đây là hai trường hợp điển hình:
1) Một cách bán chính thức, cộng sản thu vàng của dân để tổ chức những cuộc vượt biên. Khi thuyền vượt biên ra đến hải phận quốc tế, chúng cho công an dùng thuyền cao tốc đuổi theo, bắn chìm thuyền và giết hết những người đã nộp tiền cho chúng. Tên công an Nguyễn Tấn Dũng là một trong những thủ phạm của những vụ cướp của, giết người dã man này.
2) Sự quyết tâm trả thù một cách phi pháp (extrajudicial retribution) của Việt cộng đối với người dân Miền Nam đã xô đẩy trên ba triệu người Miền Nam phải rời bỏ quê cha đất tổ, lao ra biển trên những chiếc thuyền mỏng manh, gây ra những cái chết thảm cho 700.000 thuyền nhân trên Biển Đông và hàng chục ngàn bộ nhân chết trong rừng. Thảm hoạ chưa từng có trong lịch sử loài người này đã gây bàng hoàng và đánh thức lương tri nhân loại từng ngày trong hai thập niên 70 và 80 của thế kỷ trước. Thế giới đã nhìn rõ bộ mặt phi nhân của cộng sản và đã mở rộng vòng tay nhân ái để cứu hàng triệu người Việt Nam chạy trốn cộng sản. Bọn tội phạm Việt cộng đang tìm cách xoá bỏ tội ác này bằng cách áp lực chính phủ Nam Dương xoá bỏ di tích trại tỵ nạn Galang, nơi tạm trú của hơn 200.000 thuyền nhân trước khi được đi định cư tại một nước thứ ba. Đây là chứng tích siêu tội ác của cộng sản đối với đồng bào của chúng mà ngày nay chúng gọi là khúc ruột ngàn dặm và kêu gọi hoà hợp hoà giải với chúng.
Kết Luận
Trúc trên rừng cũng không ghi hết 80 năm tội ác của Hồ Chí Minh và đồng đảng đối với dân tộc Việt Nam. Phần trình bày sơ lược một số tội ác của cộng sản trên đây là để chỉ đích danh từng tội ác của chúng trong bốn nhóm tội ác nghiêm trọng đươc cộng đồng quốc tế đặc biệt quan tâm. Sau này, khi một toà án thụ lý và xét xử những tên chánh phạm Việt cộng, phòng công tố của toà án sẽ điều tra đầy đủ những tội ác của chúng.
Tội ác của cộng sản đối với dân tộc Việt Nam không chỉ là những tội ác hình sự mà còn là những tội ác lịch sử. Các sử gia Việt Nam có nhiệm vụ truy cứu và thẩm định những tội ác lịch sử của chúng. Đây là một nhiệm vụ quan trọng để làm sáng tỏ những sự thật lịch sử đã bị những thủ đoạn tuyên truyền gian manh của cộng sản xuyên tạc và bóp méo trong 80 năm nay. Về phương diện pháp lý, những thủ phạm phải bị mang ra xét xử tại một toà án đáp ứng được những tiêu chuẩn quốc tế về công lý bởi vì những tội ác của cộng sản là những tội ác mang tính quốc tế.
Lần đầu tiên trên thế giới đã có một toà án hình sự có tính quốc tế đang xét xử bọn tội phạm cộng sản. Đó là Toà Án Đặc Biệt Cam Bốt có tên Anh ngữ là “Extraordinary Chambers in The Courts of Cambodia” đang xét xử bọn tội phạm cộng sản Khờ Me Đỏ tại Nam Vang.
Năm 1997, chính phủ Cam Bốt đã yêu cầu Liên Hiệp Quốc trợ giúp thành lập một toà án để xét xử các lãnh tụ Khờ Me Đỏ. Năm 2001, Quốc Hội Cam Bốt đã thông qua một đạo luật thành lập một toà án để xét xử những tội ác nghiêm trọng mà Khờ Me Đỏ đã phạm trong thời gian từ 1975 tới 1979. Chính phủ Cam Bốt nhấn mạnh rằng vì lợi ích (hoà giải) của dân tộc Cam Bốt, toà án phải được mở ra trên lãnh thổ Cam Bốt. Và để đáp ứng được những tiêu chuẩn luật pháp quốc tế, chính phủ Cam Bốt sẽ mời các thẩm phán và công tố viên ngoại quốc để cùng làm việc với các thẩm phán và công tố viên người Cam Bốt. Tháng 6-2003, Liên Hiệp Quốc và Cam Bốt đã đạt được thoả thuận cuối cùng về cách thức mà cộng đồng quốc tế sẽ trợ giúp và tham dự vào Toà Án Đặc Biệt Cam Bốt.
Toà Án Đặc Biệt Cam Bốt được thành lập bởi Chính Phủ Cam Bốt và Liên Hiệp Quốc, nhưng toà án này hoàn toàn độc lập và hoạt động theo những tiêu chuẩn quốc tế. Ngày 31-7-2007, các đồng thẩm phán điều tra ((the co-investigating judges) đã ban hành lệnh bắt giữ đầu tiên và năm thủ phạm đã bị bắt giam gồm những tên sau đây.
*Kaing Guek Eav, Alias Duch, cựu trưởng trại tù S-21, bị kết tội ác chống nhân loại.
*Nuon Chea, cựu chủ tịch quốc hội, bị kết tội ác chống nhân loại và tội ác chiến tranh.
* Ieng Sary, cựu bộ trưởng ngoại giao, bị kết tội ác chống nhân loại và tội ác chiến tranh.
* Ieng Thirith, cựu bộ trưởng xã hội, bị kết tội ác chống nhân loại.
* Khiêu Samphan, cựu thủ tướng, bị kết tội ác chống nhân loại và tội ác chiến tranh.
Phiên toà đầu tiên xử thủ phạm Kaing Guek Eav, Alias Duch đã mở ra ngày 17-2-2009 và vẫn còn đang tiếp diễn. Thủ phạm tiếp theo sẽ bị mang ra xử là Nuon chea.
Tám mươi năm tội ác của cộng sản đối với dân tộc Việt Nam đã hiển nhiên, không thể chối cãi. Và như đã nói ở trên, những di sản độc hại của thứ văn hoá xã hội chủ nghĩa rừng rú đã di căn vào mọi ngõ ngách trong đời sống xã hội tại Việt Nam hôm nay, và còn tiếp tục gây tác hại nghiêm trọng chừng nào cộng sản còn thống trị đất nước. Việc lên án những tội ác của chúng là một bổn phận của lương tri và đạo đức của mọi người Việt Nam.
Việc thẩm định một cách chính xác và khách quan những tội ác của cộng sản và đưa những chánh phạm ra xét xử trước công lý là một điều cần thiết bởi vì công lý là một thành tố không thể thiếu trong tiến trình của sự hoà giải dân tộc. Công lý cũng cần thiết trong việc tái lập những quan hệ hoà bình và bình thường giữa những người đã phải sống dưới sự thống trị của khủng bố cộng sản. Công lý xoá bỏ chu kỳ bạo lực, sự thù hận và sự trả thù vô luật pháp. Như vậy, hoà bình và công lý sánh bước cùng nhau. Và sau hết, công lý còn cần thiết để trả lại danh dự cho những nạn nhân còn sống sót và gia đình của những nạn nhân đã chết. Tóm lại, để hoà giải dân tộc, phải mang những kẻ phạm tội ra trước công lý và mang công lý tới cho những nạn nhân.
Sau khi chế độ cộng sản Việt Nam bị xoá bỏ, ngoài công việc rất khó khăn là phải tháo gỡ và tẩy sạch những di sản độc hại do chế độ phi dân tộc, vô tổ quốc này để lại, việc thành lập một toà án hình sự có tính quốc tế – như Toà Án Đặc Biệt Cam Bốt – trên lãnh thổ Việt Nam để xét xử bọn chánh phạm cộng sản là điều tiên quyết trong tiến trình hoà giải dân tộc. Đó là con đường công chính duy nhất đưa đến hoà giải để thống nhất ý chí và tư tưởng của dân tộc đã bị phân hoá và chia rẽ bởi những di sản độc hại của chế độ cộng sản và để tái xây dựng một Quốc Gia Việt Nam văn minh, dân chủ, pháp trị và đoàn kết để phát triển đất nước và chống lại những âm mưu bành trương ngàn đời từ phương bắc.
Sớm hay muộn, bằng cách này hay cách khác, chế độ phi nhân cộng sản Việt Nam sẽ bị bánh xe lịch sử nghiền nát; khi đó, một Đài Tưởng Niệm phải được dựng lên trên đất nước để tưởng niệm năm triệu nạn nhân của cộng sản. Ngoài ra, còn phải xây một Viện Bảo Tàng Tội Ác của Cộng Sản để làm bài học lịch sử cho các thế hệ tương lai. Trong khi chờ đợi, cộng đồng người Việt tỵ nạn cộng sản lớn nhất trên thế giới tại Hoa Kỳ nên góp công sức để xây – tại một khu Little Saigon – một Đài Tưởng Niệm Năm Triệu Nạn Nhân của Cộng Sản Việt Nam. Đây là một trách nhiệm lịch sử của người Việt quốc gia.
Sau hết, cần phải chính danh một cái danh xưng đã bị lộng giả thành chân suốt 80 năm nay. Những người cộng sản già thường được đồng đảng của họ tung hô là những nhà cách mạng lão thành. Đây là một Nguỵ Danh để che giấu cái bản chất thực của họ. Chính Danh của họ là những tên Việt gian, tay sai cho Đệ Tam Quốc Tế; những tên tội phạm quốc tế đã đi gây tội ác khắp ba nước Đông Dương dưới cái chiêu bài đi làm “nhiệm vụ quốc tế.” Họ chính là thủ phạm đã phân hoá và chia rẽ dân tộc suốt 80 năm nay. Do đó, những người cộng sản đã cướp và duy trì chính quyền bằng bạo lực cách mạng vô sản – tức bằng khủng bố – tại Việt Nam hôm nay không có tư cách gì để đứng ra kêu gọi hoà hợp hoà giải dân tộc. Chỗ đứng – sớm hay muộn – của các người là trước vành móng ngựa như chỗ đứng của bọn tội phạm cộng sản Khờ Me Đỏ hiện nay. Những người chủ trương hoà hợp hoà giải với cộng sản là những kẻ đồng loã với những tội ác của chúng.
Đỗ Ngọc Uyển
(Khoá 4 Thủ Đức)
Tháng 8 năm 2009
San Jose, California
http://www.phanchautrinhdanang.com/